Kỳ lạ thay, điều gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi khi thăm Bảo tàng Quang Trung không phải là sa bàn tái hiện những trận thủy chiến oanh liệt, mũ miện vương triều, các loại binh khí mà chính là bức ảnh đen trắng với dòng chú thích “Cánh đồng cô Hầu” được trưng bày một góc khiêm nhường trong Bảo tàng. Cô Hầu là ai? Người phụ nữ ấy có liên quan gì đến Nhà Tây Sơn?
Lần giở những trang sử viết về nhà Tây Sơn, hình ảnh Cô Hầu hiện lên, rực rỡ mà thầm lặng, rất thực mà cũng thật huyền ảo, lung linh. Nhờ nghề buôn trầu nguồn và trao đổi sản phẩm hai miền xuôi ngược, gia tộc nhà Tây Sơn ngày càng trở nên giàu có. Khi cha là Hồ Phi Phúc qua đời, Nguyễn Nhạc là anh trưởng nối nghiệp nhà.
Tương truyền, cả ba anh em nhà Tây Sơn đều học cả văn lẫn võ từ thầy giáo Trương Văn Hiến còn gọi là giáo Hiến - một nhà nho trốn nạn chuyên quyền của Trương Phúc Loan vào An Thái mở trường dạy học. Nhà giàu, giỏi võ, ông Nhạc nổi tiếng phong nhã hào hoa nên có nhiều bạn bè giao du. Uy thế của Nguyễn Nhạc ngày càng lớn. Để chuyên tâm lo đại cuộc, Nguyễn Nhạc giao việc buôn trầu cho vợ là bà Trần Thị Huệ, quê ở Trường Định. Vốn tháo vát, đảm đang, biết cư xử nên việc buôn bán giao cho bà ngày càng phát đạt.

Cụm tượng Tây Sơn tam kiệt. Từ trái sang: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ được trưng bày trong Bảo tàng Quang Trung.
Khởi nghiệp cần phải có cơ sở vững chắc, Nguyễn Nhạc một mặt sai Nguyễn Huệ đi khắp ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn để chiêu mộ người tài giỏi. Mặt khác, ông lên An Khê khẩn hoang, phát triển lực lượng, gây thanh thế. Đồng bào mộ đi khai khẩn, sau này phần lớn trở thành nghĩa quân. Để đứng vững chân miền thượng, Nguyễn Nhạc rất giỏi dùng chính sách Thượng vận để lôi kéo các tộc người Sêđăng, Rađê, Giarai, Bana về với mình.
Người Thượng từ Quảng Ngãi vào Phú Yên vốn tôn thờ thần Lửa. Sực nhớ Nguyễn Lữ là người nhân ái, tính tình mềm mỏng, lại tu đạo Minh Giáo (Ma- ní) một đạo cũng thờ thần Lửa, Nguyễn Nhạc, giao quyền điều khiển Tây Sơn Hạ cho Nguyễn Huệ, rút Nguyễn Lữ lên An Khê để vận động người Thượng. Vốn mến mộ Tây Sơn Vương từ trước, lại có thầy Hỏa giáo theo sau, người Gia-rai coi Nguyễn Nhạc như thần và gọi là “Vua Trời”.
Tuy nhiên, “Vua Trời” lại không dễ dàng chinh phục người Sêđăng. Thủ lĩnh Sêđăng là Bok Kiơm không phục, cho rằng ông Nhạc không phải là người Trời, bởi trông ông ta không có gì khác thường. Để Bok Kiơm tin phục, Nguyễn Nhạc đã lao tâm khổ tứ tìm cách chinh phục ngựa thần trên đỉnh núi Hiển Hách. “Phải bắt cho được ngựa thần mới chinh phục được người Sêđăng, mà có chinh phục được người Sêđăng thì vùng Tây Nguyên mới thực sự là đất Tây Sơn, vì phần đông dân An Khê là người Sêđăng”.
Nguyễn Nhạc ngày đêm trăn trở, ông cắt đặt Nguyễn Lữ ở lại tuyên truyền theo kiểu “nước thấm lâu ngày” rồi về Kiên Mỹ mua một số ngựa cái lớn tốt giống, đem về huấn luyện, hễ nghe tiếng hú là chạy đến. Khi bầy ngựa đã thành thục, Nguyễn Nhạc đem lên núi Hiển Hách thả cho theo ngựa rừng. Khi ngựa đồng và ngựa rừng quen nhau, Nguyễn Nhạc cho hú gọi, ngựa đồng chạy về, ngựa rừng cũng chạy theo, ban đầu thấy người còn nhút nhát, sau quen dần.
Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ngựa rừng ăn, vuốt ve hết con này đến con khác. Con ngựa bạch đầu đàn lúc đầu còn phản ứng, dần dần đứng yên cho người vuốt ve. Khi chắc chắn đã chinh phục được “ngựa thần”, Nguyễn Nhạc hẹn Bok Kiơm đến chứng kiến. Nguyễn Nhạc cất tiếng hú. Bầy ngựa rừng theo ngựa đồng chạy đến, có cả “ngựa thần” màu trắng, chịu cho Nguyễn Nhạc âu yếm, vuốt ve. Người Sêđăng từ đó tin Nguyễn Nhạc là “người Trời”, hết lòng thần phục.
Trong vùng An Khê, ở làng Cổ Yêm, gần Tú Thủy nay thuộc xã Nghĩa An, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai có tộc người Bana sống ở rừng Mộ Điểu. Rừng rộng mênh mông, chính giữa nổi lên ngọn đồi, mỗi chiều từng đàn chim bay về nghỉ, tiếng chim vang dậy cả rừng xanh. Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ không quản khó nhọc tìm lên rừng Mộ Điểu, thuyết phục tộc trưởng Bana cùng Tây Sơn tham gia khởi nghĩa. Tộc trưởng rất cảm kích người thay trời hành đạo. Để bày tỏ lòng trung thành, mến mộ Nhà Tây Sơn, ông gả cô con gái yêu, xinh đẹp cho “Vua Trời”. Nàng tên là Yă Đố nhưng từ khi làm vợ “Vua Trời”, nàng được gọi là Cô Hầu.

Trên cầu qua sông Côn, đi tìm lại dấu tích Tây Sơn tam kiệt.
Hiểu được chí lớn của “Vua Trời”, Cô Hầu là một trong những cộng sự đắc lực của Nguyễn Nhạc trong những ngày lên miền thượng xây dựng căn cứ khởi nghĩa. Cô Hầu không chỉ cùng Nguyễn Nhạc đi kết giao với một số tù trưởng người Sêđăng, Jarai, Bana ở Cheo Reo, Pleiku, Kontum và người Hrê ở phía Tây Quảng Ngãi mà còn cầm đầu một số dân binh người miền núi khai khẩn đất hoang.
Từ việc khai khẩn, quản lý, sản xuất, thu hoạch đều do Cô Hầu đảm nhiệm. Sức lao động mạnh mẽ, bền bỉ của các tộc người ở vùng này, kết hợp với tài chỉ huy kinh tế của người Kinh do “Vua Trời” rút từ Tây Sơn Hạ lên điều khiển, cộng với đất đai màu mỡ, chẳng bao lâu rừng Mộ Điểu đã có được cánh đồng phì nhiêu rộng hàng chục mẫu. Đây là vùng đất màu mỡ nằm lọt giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ, có đường thông lên tận Kontum, thông xuống đồng bằng Bình Định qua ngả đèo Vạn Tuế.
Rừng Mộ Điểu trở thành một hậu cứ của nghĩa quân Tây Sơn, sản xuất lương thực, vũ khí, tuyển mộ và rèn quân. Nơi đây sau này được gọi là cánh đồng Cô Hầu và ngọn núi ở giữa được đồng bào Bana đặt tên là núi Hoàng Đế.
Việc Nguyễn Nhạc có thêm người vợ Bana đối với bà Trần Thị Huệ dường như không có gì xáo trộn. Ngược lại, bà cảm thấy yên tâm vì Nguyễn Nhạc đã đứng chân được trên núi, còn bà lo hậu cứ dưới đồng bằng. Nguyễn Nhạc khi ở Mộ Điểu, khi về Tây Sơn Hạ lo chiêu mộ anh tài, phát triển lực lượng.

Một điệu múa tái hiện sinh hoạt người Bana trong chương trình biểu diễn
phục vụ khách tham quan của Bảo tàng Quang Trung.
Lòng dân chán ghét tham quan ô lại, quân Tây Sơn thượng võ, thiện chiến, cộng với tài lãnh đạo kiệt xuất của “Tây Sơn tam kiệt”, trở thành đội quân bách chiến bách thắng. Năm 1771, Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1773, lấy được thành Quy Nhơn, năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi lấy niên hiệu Thái Đức; phong Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân, sau đó là Bắc Bình Vương; Nguyễn Lữ là Tiết Chế, sau là Đông Định Vương.
Những người có công cũng được tưởng thưởng xứng đáng. Và hẳn nhiên, vua Thái Đức rất biệt đãi những người anh em Tây Sơn Thượng, nhất là Bok Kiơm, thủ lĩnh Sêđăng. Nhưng Bok Kiơm không nhận chức tước, cũng không nhận tiền của vua ban, chỉ xin mỗi năm một lần, được nhà vua cấp muối và cá khô, để lòng người thượng và Tây Sơn như “gừng cay muối mặn” luôn có nhau.
Sắp đặt lại hậu cung là một trong những việc quan trọng của những ông vua ngay sau khi lên ngôi. Bà Trần Thị Huệ, người vợ hiền đức, đảm đang từng trông coi trường trầu năm nào ở Kiên Mỹ trở thành Chánh cung hoàng hậu. Từ rừng Mộ Điểu, Cô Hầu, được vua rước về thành Hoàng Đế, phong Thứ phi. Dù được vua Thái Đức hết mực sủng ái, được Chánh cung hoàng hậu đối đãi thân tình như chị em ruột thịt nhưng cuộc sống chốn cung cấm với ngôi thứ, nghi lễ ràng buộc không phù hợp với người sơn nữ.
Cô Hầu thấy luôn cô đơn, lạc lõng. Nàng xa lạ với ngôi thứ phi, không quen cảnh phù hoa, tràn ngập lụa là gấm vóc, người hầu kẻ hạ, miệng không quen nếm các món ăn sơn hào hải vị. Cô Hầu nhớ da diết cánh đồng mênh mông trên rừng Mộ Điểu đã từng thấm mồ hôi, nước mắt những mộ dân khẩn hoang. Lưu lại một thời gian ở hoàng cung, Cô Hầu xin trở về với núi rừng. Chia tay với Nguyễn Nhạc, Thứ phi nói:
- Bây giờ Người Trời đã có một giang sơn, anh hùng hào kiệt dưới trướng như lá trên rừng. Lá có thể rơi nhưng nếu còn cội sẽ tiếp tục đâm chồi nẩy lộc. Thiếp về Mộ Điểu nguyện làm cội rễ cắm sâu vào núi rừng, dù bể dâu vẫn một lòng trung thành với Người Trời.
Lạy tạ Chánh cung hoàng hậu, nàng nói:
- Em rất cám ơn chị đã coi em như cật ruột nhưng em phải về rừng phòng hậu sự sau này. Có chị bên cạnh “Vua Trời” em rất yên tâm. Dẫu xa nhau nhưng tình chị em vẫn như bát nước tràn đầy.
Từ đó, thành Hoàng Đế vắng bóng một đóa hoa pơ lang đẹp nhất mà Nguyễn Nhạc được biết và đã từng chịu ơn…
Trong suốt 24 năm trị vì, nhà Tây Sơn phải đánh Nam dẹp Bắc, đối phó thù trong giặc ngoài, thống nhất giang sơn, chưa lúc nào rảnh rang để thực hiện cải tổ, chấn hưng lại đất nước. Khi vua Quang Trung băng hà, bị Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, nội bộ nhà Tây Sơn bị chia rẽ dữ dội. Nhiều danh tướng từng đồng cam cộng khổ, lập công lớn với nhà Tây Sơn bị giết, bị cô lập.
Ngô Văn Sở từng là một công thần được vua Quang Trung hết mực tin dùng bị dìm xuống sông Hương cho đến chết. Lê Văn Trung bị giết khiến con trai là Lê Chất tìm vào Gia Định quy hàng Nguyễn Ánh… Lợi dụng công đánh đuổi quân Nguyễn Ánh ra khỏi Quy Nhơn, Cảnh Thịnh cho giải giáp quân thành Hoàng Đế khiến Nguyễn Nhạc uất ức đến thổ huyết mà chết, ngự cốt được đưa về an táng trong vùng núi Tây Sơn.
Con trưởng của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Bảo từ danh phận là Thái tử bị bức về Tuy Viễn, phong là Hiến Công, cho ăn lộc chỉ một huyện. Chánh cung hoàng hậu Trần Thị Huệ đưa hai con nhỏ là Văn Đức, Văn Lương và cháu nội - con Nguyễn Bảo là Văn Đẩu về sống trên quê hương Kiên Mỹ để tiện việc gần gũi, chăm sóc lăng vua.
Không cam lòng bị vua Cảnh Thịnh cướp mất cơ đồ mà Nguyễn Nhạc đã dày công tạo lập, Nguyễn Bảo nổi dậy đánh thành Quy Nhơn nhưng thất bại. Cảnh Thịnh cho nhận chìm người anh chú bác xuống sông. Tin dữ bay về Kiên Mỹ, hoàng hậu Trần Thị Huệ vô cùng đau đớn và bối rối. Một Chánh cung hoàng hậu tiền hô hậu ủng năm nào giờ thật côi cút, bơ vơ, lại là chỗ tựa duy nhất cho những đứa trẻ ngây thơ, tội nghiệp của hoàng gia. Bà ra lăng tẩm thắp hương cho Nguyễn Nhạc, cám cảnh người nằm dưới mộ, kẻ trên dương thế òa khóc nức nở. Hương khói bay lãng đãng, tan vào thinh không.
Giữa lúc ấy bà sực nhớ đến buổi chia tay với Cô Hầu với lời từ biệt đầy dự cảm: “…Em phải về rừng phòng hậu sự sau này. Có chị bên cạnh Người Trời em rất yên tâm. Dẫu xa nhau nhưng tình chị em vẫn như bát nước tràn đầy”. Đối mặt với tai ương, nghịch cảnh, trong đầu hoàng hậu chợt được soi sáng với ý nghĩ: “rừng Mộ Điểu xa xôi heo hút, cung tên người Thượng rất lợi hại, Cảnh Thịnh có biết cũng không dám làm gì”. Bà linh cảm Cô Hầu sẽ sẵn sàng đùm bọc, cưu mang bà cùng những đứa trẻ. Bà vội vã trở về, nửa đêm bí mật đem hai con và cháu nội chạy lên An Khê.
Giữ vững lời hứa với “Người Trời”, Cô Hầu là cội rễ trên rừng Mộ Điểu cho hoàng hậu và những giọt máu còn sót lại của hoàng gia nương tựa. Cuộc sống nơi sơn cước không đầy đủ, tiện nghi như dưới Tây Sơn Hạ nhưng hoàng hậu vốn là một thôn nữ đảm đang nên đã cùng Cô Hầu tiếp tục sự nghiệp khai khẩn cánh đồng Mộ Điểu. Cuộc sống của họ tuy đạm bạc nhưng được an toàn trong vòng tay che chở của người Thượng, ngay cả khi Nguyễn Ánh lên ngôi trả thù nhà Tây Sơn vô cùng tàn khốc.

Bảo tàng Quang Trung.
Biết rõ hai người con và cháu nội của vua Thái Đức đang nương tựa vào Cô Hầu nơi Mộ Điểu trên vùng An Khê nhưng vua tôi Nguyễn Ánh sợ cung tên và sức mạnh của người Thượng nên không dám đến bắt. Mấy mươi năm vùn vụt trôi qua, rừng Mộ Điểu bao lần thay lá, mỗi cái tết đến nỗi nhớ cố hương càng nung nấu người Tây Sơn Hạ.
Hai con và cháu nội Nguyễn Nhạc cải trang về thăm quê cha đất tổ. Có bọn bất lương mật báo, quân nhà Nguyễn đến Kiên Mỹ vây bắt, đem họ về Phú Xuân hành hình. Đó là năm Minh Mệnh thứ 12 (1838). Bà Trần Thị Huệ hay tin, vô cùng đau đớn, tuyệt vọng. Cô Hầu một lần nữa là điểm tựa che chở, an ủi bà hoàng hậu bất hạnh. Núi rừng Mộ Điểu đã che chở cho những năm cuối đời của hai người vợ của Nguyễn Nhạc.
Dù đoạn kết nhà Tây Sơn vô cùng bi thảm nhưng công lao Cô Hầu trong những ngày Tây Sơn khởi nghiệp, câu chuyện về Cô Hầu vẫn tồn tại trong nhân dân và địa danh “Cánh đồng Cô Hầu” ở An Khê là một minh chứng cho mối tình Kinh - Thượng keo sơn, bền chặt.