Năm 1937, xuất bản tập thơ đầu ĐIÊU TÀN.
Năm 1939 ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo. Về Thanh Hóa, rồi Huế dạy học.
Năm 1942 in tập văn xuôi Vàng sao, viết truyện ngắn, tập Gai lửa, tiếp tục làm thơ (Tập Thơ không tên).
Tham gia Cách mạng tháng Tám tại Quy Nhơn. Sau đó ra Huế làm báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung Bộ. Vào Đảng năm 1949.
Thời đất nước chia cắt, sống ở Hà Nội, tham gia ban lãnh đạo Hội Nhà Văn, đại biểu Quốc hội các khoá 4, 5, 6, 7. Hoạt động đối ngoại trên các diễn đàn văn học và trí thức ở Liên Xô, Pháp, Nam Tư , Ấn Độ và các nước Tây Âu.
Đất nước thống nhất, về sống ở đường Lê Văn Sỹ Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1981 chuyển ra ngoại vi thành phố, quận Tân Bình. Tại đây, trong 8 năm cuối của đời mình, theo lời vợ ông, nhà văn Vũ Thị Thường, ông viết một khối lượng thơ nhiều hơn cả đời thơ trước đó. Bà Vũ Thị Thường đã soạn được bốn tập Di cảo, khoảng 700 bài (đã xuất bản ba tập). Bản thảo vẫn đang còn.

Nhà thơ Chế Lan Viên
Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước bước vào chặng lịch sử mới, Chế Lan Viên cũng như hầu hết các nhà thơ lãng mạn của phong trào Thơ Mới cũng vào chặng sáng tác mới: tự nguyện biến thơ mình thành công cụ vận động đồng bào đánh giặc cứu nước. Nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trở thành cây bút hiện thực dò tìm những bước đi đầu tiên. Nhiều trồi trụt và ấu trĩ.
Nhưng hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ với biết bao biến động của đường lối văn nghệ, đọc lại không thể không khâm phục ý chí vì đại nghĩa của lớp nhà thơ “tiền chiến” ấy. Tập thơ bao trùm giai đoạn sáng tác chín năm kháng chiến Gửi các anh là một tập thơ mỏng, ướm thử nhiều thủ pháp, cốt sao tải được hiện thực cuộc sống lẫn ý tưởng tác giả khi ấy. Khó có thể coi bài nào là hoàn chỉnh, nhưng lại hé cho thấy những khuynh hướng mới, sau này sẽ phát triển rõ trong Ánh sáng và Phù sa. Lối viết chính luận tung hoành trong các câu thơ rộng khổ ở các bài Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi đã được báo hiệu từ những thể nghiệm của bài Chào mừng (viết năm 1950). Cũng như vậy, Đi ra ngoại ô thoát thai từ Trường Sơn. Và Kết nạp Đảng trên quê mẹ từ Đưa con ra trận. Điều đó chứng tỏ hướng tìm của Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống Pháp là có ý nghĩa.
Chúng ta hiểu thêm: ngay ở những nhà thơ tài năng, để chín trong một khuynh hướng sáng tác mới cần một lao động thơ bền bỉ hàng thập niên. So với thơ viết trước cách mạng, Gửi các anh hàm chứa hiện thực, đôi lúc thơ làm nhiệm vụ ký sự, đôi lúc thơ thuyết minh bình luận sự kiện quá đầy đủ và khô khan, nhưng có một bước phát triển bạn đọc cần ghi nhận là chính từ tập thơ này Chế Lan Viên bộc lộ khuynh hướng nâng cao phẩm chất trí tuệ cho thơ.
Càng về sau, hứng thú khi đọc thơ Chế Lan Viên càng thiên về hứng thú trí tuệ. Và từ trí tuệ mà nảy sinh tình cảm ở một chiều sâu mới. Bài thơ dựng lại con đường Bác Hồ tìm đường cứu nước mang cái tên dài Người đi tìm hình của nước. Bản thân cái tên ấy là một câu thơ hàm súc. Hình tượng thơ nằm trong hình ảnh đi tìm hình của nước, nghĩa là tìm dạng thức tồn tại cho đất nước (Độc lập hay Liên hiệp? Cộng hòa hay Quân chủ?…). Cách nói ấy mang tính trí tuệ và trở thành tứ của bài thơ. Bài thơ kết thúc khi cái hình nước hiện ra, trong hòn đất Pắc Bó được Bác Hồ nâng trên tay ngày trở về:
Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất Trong màu hồng hình đất nước phôi thai |
Ánh sáng và Phù sa xuất hiện năm 1960, trong mùa chín của các nhà thơ cách mạng đi từ phong trào Thơ Mới lãng mạn với các thi phẩm của Xuân Diệu (Riêng chung) Huy Cận (Trời mỗi ngày lại sáng) Tế Hanh (Gửi Miền Bắc) Lưu Trọng Lư (Toả sáng đôi bờ )… tạo một không khí sầm uất cho thơ, trong chừng mực nào đã bộc lộ được mặt mạnh của khuynh hướng mở rộng cánh tay thơ ôm chứa lấy cuộc đời. Phẩm chất trữ tình mới và cả bút pháp thể hiện mới của Ánh sáng và Phù sa như một cú hích cho cả nền thơ Miền Bắc hồi ấy. Nhiều cây bút trẻ bị phong cách Chế Lan Viên thu hút. Từ đó cho đến khi mất, Chế Lan Viên đều đặn cho xuất bản Hoa ngày thường – chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hoa trước lăng Người (1977), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984). Các tập thơ vận động trên cùng một trục thi pháp Chế Lan Viên, nhưng mỗi tập là một phát triển dung lượng chất chứa hiện thực: chuyện đánh giặc, chuyện đời thường.
Thơ đánh giặc của Chế Lan Viên là thơ bình luận, tranh luận về phẩm chất anh hùng của cuộc chiến đấu, về lý tưởng cao cả và đức hy sinh to lớn của dân ta. Có thể nói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ Chế Lan Viên đã thành chỗ tựa tâm hồn cho người đánh giặc. Còn nhớ, những ngày đầu Miền Bắc chống không lực Hoa Kỳ ngay từ 5/8/1964, tin chiến sự như vang cùng thơ Chế Lan Viên, làm phấn chấn và thôi thúc lòng người. Tên sông tên núi gọi lên khi ấy thấm thía, xao xuyến biết bao nhiêu:
Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu và bảo vệ Mây nước, cửa nhà, văn học, ngữ ngôn Một đảo vắng Hồn Ngư còn chớp bể Một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưa nguồn |
Tình cảm nhà thơ cộng hưởng với tình cảm toàn dân yêu đất nước. Suốt mười năm từ 1965 đến 1975, Chế Lan Viên đồng hành cảm xúc mình với cuộc chiến đấu thống nhất đất nước. Thơ ông vào trận, khi hào sảng âm vang như văn Hịch tướng sĩ thời Trần: Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965), Con mắt Bạch Đằng, Con mắt Đống Đa (1966), Suy nghĩ (1966)…
Ngày toàn thắng 30/4/1975, Chế Lan Viên công bố bài thơ dài Ngày vĩ đại, viết 3/5/1975, in tràn một trang nhật báo khổ to. Giọng thơ ào ạt như thuở nào Đại cáo Bình Ngô trúc chẻ ngói tan, thần tốc thắng giặc, những thương nhớ đau đớn âm thầm nén lại bấy nhiêu năm cắt chia, bom đạn như được ào ra trang giấy cười, khóc, xót thương, hả hê, hào hứng.
…Vậy mà chưa đã, Núi sông lành chỗ cắt vẫn còn đau, hai tuần sau đó, vẫn thể thơ ấy, một bài dài gần gấp đôi xuất hiện, sâu lắng thâm trầm hơn, cảm nhận trở lại những gì dân ta, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã cắn răng chịu đựng Đau sông nước muôn phương thân vạc thân cò. Dung lượng bài thơ đủ cho tác giả bình luận mọi lĩnh vực. Chỗ tình cảm đằm thắm, có chỗ lại lý sự, tranh luận. Cái thế tranh luận của người chiến thắng, bút pháp tung hứng nhưng cũng rất dễ tự say lời.
Hai vế đề tài Hoa ngày thường và chim báo bão trong thơ kháng chiến chống Mỹ và mươi năm sau đó của Chế Lan Viên luôn luôn phát triển song hành. Biên độ cảm xúc rộng, bút pháp biến hoá, có lúc kết hợp cả trào phúng.
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Hình ảnh ấy, trước hết, hợp với chính Chế Lan Viên. Không chỉ vì thơ ông có mặt kịp thời trong những khoảnh khắc thử thách ngặt nghèo của cuộc chiến mà còn ở tầm vóc và tư thế cảm xúc. Ông là người chủ lực trong cả nền thơ, tạo nên mạch trữ tình lịch sử, trữ tình của những sự kiện lớn. Cảm xúc choán những biên độ rất rộng Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc đến Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi. Một đầu là lịch sử, đầu kia đã là thân phận con người. Cả hai hình ảnh đều rất gợi cảm, gợi nghĩ ngợi. Nhiều nhà nghiên cứu gọi Chế Lan Viên là nhà thơ trí tuệ (dù ông không thích, nó như anh đeo kính gọng vàng!) có lẽ là do đặc tính ôm trùm rộng xa và uyên bác này.
Kinh nghiệm một nhà thơ lớn cho ông biết cái cách chuyển thơ trên đại lộ rất dễ thiếu đi sắc hoa hương cỏ của những lối mòn quanh quất, nhỏ mà rất thơ. Hướng Hoa ngày thường luôn được ông để tâm khai thác. Chế Lan Viên tận dụng tứ tuyệt để viết ngay, viết gọn những thoáng gặp thơ hồn nhiên, không để cái thói quen “tư tưởng hoá” kịp ập vào:
Quên mất mình vừa sáu chục Mở trang giấy rộng viết dài Gương nhắc mái đầu chớm bạc Lại làm có bốn câu thôi |
Ông nhớ căn phòng ở sứ quán Việt nước người trong mấy đêm tá túc cũng như từng chợt nhớ: nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa… Những cái nhớ không đâu, những cái buồn không định… ông đều đánh dấu vào thơ. Có khi nghĩa thơ chưa sâu nhưng nghĩa đời lại nặng, những câu thơ nhỏ cho thấy đời một nhà thơ lớn:
Còng lưng tưới nước, vạt rau khô Bơm hỏng mà đâm khổ cả nhà Đêm ngủ chỉ lo toàn vật giá Xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ |
Xa dần truyện ngắn là bà Vũ Thị Thường, vợ ông, bớt dần thơ là ông muốn diễu mình. Dọn vào Thành phố Hồ Chí Minh, ông không xin nhà, tự bỏ tiền mua một căn nhỏ trong hẻm. Ít lâu sau, bán đi, mua một căn có vườn, tít ngoài Tân Bình. Nhà một tầng, cây ăn quả xung quanh. Ông thích lắm, đặt tên chữ Hán cho sang Viên tĩnh viên. Nhưng đất phèn, cây không lên được. Cái ý định tự trồng lấy rau mà ăn xem ra cũng không dễ. Bài thơ trên viết năm 1985, cuộc sống vật chất toàn dân đều khó. Tôi đến thăm, ông mặc bộ bà ba nâu, đi chân đất, dẫn đi thăm cây, nói về đất phèn và giảng Nam Hoa Kinh. Năm (1986), Khi nhà xuất bản Văn Học phát hành Tuyển tập Thơ Chế Lan Viên 400 trang, ông hào hứng viết thư: Thế là mình xây xong mộ cho mình rồi. Bây giờ còn ngày nào, mình nằm gác chân lên cửa sổ nhà mình, muốn viết gì thì viết. Lắng nghe trong câu nói tếu táo ấy, một mong muốn thầm lặng của ông, hình như ông còn nhiều thứ phải đợi xong nghĩa vụ với đời mới viết cho mình. Hôm đọc trên báo bài Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (1988), qua tâm sự ông vua, đã thoáng thấy tâm sự ông nhà thơ:
Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa Xa tiếng gió xạc xào? Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ? Chỉ nghe danh vọng ầm ào? Vinh quang xí xố. |
Câu cuối cùng ở bài thơ ấy, khi ông vua Đinh kêu lên: Hồn ta ở đâu? Ta nghe thấy khát khao của nhà thơ Chế:
anh ấy Điêu Tàn, anh ấy Phù Sa anh ấy đọc hồn trời, hồn đất câu cuối cùng hỏi đâu hồn ta (thơ Vũ Quần Phương, trang 45, Vết thời gian, Văn học - 1996) |
Trong tập Hoa trên đá (1984), Chế Lan Viên cũng đã quay lại với giọng nhỏ trữ tình riêng tư, như hồi nào ông viết Ánh sáng và Phù sa. Tập trước, 1960, đánh dấu sự chuyển hướng thành công, từ chân trời một người đến chân trời mọi người. Tập sau, một phần tư thế kỷ đi qua, là sự kết tinh một đời thơ, thu ngoại giới vào hồn mình, thành hồn mình. Hoa trên đá là một mốc chuyển đáng lưu ý của Chế Lan Viên. Chủ thể cá nhân bộc lộ khá nhiều mà không cá nhân chủ nghĩa:
Đời ngoài tuổi năm mươi Mong gì hương sắc lạ Mọc chùm hoa trên đá Mùa xuân đâu chịu lùi |
Nông nỗi cá nhân, mà buồn nữa. Tình thế buồn nhưng người không cam phận.
Chả bề nào khuây được bể đâu Trừ ra bể sâu hơn bể nữa Bể gây những cuồng phong bão tố Cũng để quên mình lỡ đã thẳm sâu |
Bi kịch nhưng cũng là cái giá phải trả cho sự biết, nhất là để biết mình. Rất nhiều bài thơ như tự vấn trở lại những cái ngỡ như đã biết, thậm chí, đã giảng cho người khác: lẽ nào, chẳng lẽ, ngỡ như… Một nhà thơ nổi tiếng là thông minh, uyên bác và hùng biện như sông Hồng sông Mã, gầm reo trong đạn lửa, lúc cao niên lại muốn im lặng mà lắng nghe tiếng thì thầm của con sông Thương nước mắt sông nhớ thương ai mà nước chảy đôi dòng.
Bao nhiêu nỗi buồn của con người thời thơ tránh né, tránh né để lòng yên mà đánh giặc, Chế Lan Viên tự tin mà nhặt lại. Ngay nỗi buồn của lòng ông, kể cả cái tình thế cùng đường bị thời gian dồn đuổi Anh như ông vua Thục / Bị đưổi khỏi thời gian ông cũng không che dấu. Đó cũng là sự tự tin của cả nền thơ. Nỗi xúc động làm bừng tỉnh giữa cơn say ở làng Hung hay vị cay nhoè mắt khói củi sồi năm sơ tán làng quê ngoài Bắc, cỏ xanh ở Tháp Rùa hay lau trắng nơi biên giới… là những cảm xúc đã nâng thành trí tuệ, một cốt cách cổ điển mới của thơ hiện đại.
Sau khi ông tạ thế, liên tiếp ba tập Di cảo được xuất bản (1992, 1993, 1996), bạn đọc sửng sốt và vui mừng: một Chế Lan Viên khác, thực hơn, bạo hơn, gọn hơn, chắc hơn. Do vậy, mới hơn, trẻ hơn và rất lý thú là không hề cắt rời với thi pháp độc đáo Chế Lan Viên. Di cảo là những bài lúc sống, ông chưa đưa in. Chưa đưa in có lẽ vì ngần ngại năng lực tiếp thu của xã hội lúc đó…
(Xem tiếp kỳ sau)
Bài liên quan: