Vào một ngày cuối tháng 3 năm 1971, Chu Cẩm Phong lên đường đi công tác ở Quảng Đà, vùng đất cực kỳ ác liệt. Trước đó, sau khi nghe tin anh Hoàng Trà bên báo Cờ Giải Phóng miền Trung Trung bộ đi Quảng Đà về kể chuyện, Chu Cẩm Phong rạo rực lắm. Anh nói với nhà thơ Vương Linh, thủ trưởng cơ quan:
- Nghe nói tình hình Quảng Đà khá lên rồi, anh cho tôi đi anh nghe.
- Không được, các anh trên Ban Tuyên huấn nói tình hình Quảng Đà khó khăn lắm chưa cho ai đi.
- Anh Hoàng Trà bên báo vừa đi về đó, anh cho tôi đi, chẳng sao đâu.
Thấy Chu Cẩm Phong nằn nì mãi, nhà thơ cao tuổi mủi lòng, gật đầu.
Trước khi đi Quảng Đà, cũng như hầu hết anh em ở chiến trường, anh gói ghém những tài liệu, bản thảo, nhật ký cho vào trong một bao giấy bóng, bỏ vào thùng đạn đại liên của Mỹ, nói với tôi:
- Quế giữ giùm anh thùng này, có nhật ký anh viết từ năm 1967 đến nay, với một số bản thảo.
Chu Cẩm Phong rất siêng viết nhật ký. Công tác ở vùng sâu, nhiều lần sau những cuộc săn đuổi của giặc, tới nơi yên yên một chút là anh viết nhật ký. Ở căn cứ, sau những giờ phát rẫy, tỉa lúa, trồng sắn, làm nhà, tối đến anh tranh thủ viết vài dòng. Lúc nằm nghỉ vì sốt, anh cũng viết. Anh ghi lại những công việc, những sự kiện, những câu chuyện, những nhân vật anh gặp gỡ với cảm xúc của một nhà văn. Có lẽ vì thế mà sau này, khi in sách nhiều người rất thích, coi đó như một tác phẩm văn học. Những quyển nhật ký được đóng bằng giấy pơ-luya với chữ viết li ti, anh gửi lại cho tôi giữ.
Nhiều năm sau này tôi nghĩ, không biết vì sao anh không giao nhật ký của anh cho ai giữ mà là tôi. Có lẽ anh em tôi quen biết nhau đã lâu, tối mới vào nên ít đi công tác xa như Cao Duy Thảo. Vả lại việc này cũng rất bình thường trong chiến tranh. Người ra đi công tác biết mình sống chết thế nào, người ở lại giữ kỷ vật của bạn bè để lỡ có chuyện gì sau này còn giao lại cho gia đình, người thân của bạn.
Ai cũng vậy thôi, nên tôi thấy việc anh giao tôi giữ kỷ vật của anh cũng là việc bình thường. Xin nói thêm rằng, hồi đó chúng tôi thường đựng tài liệu trong thùng đạn đại liên hay ống pháo của Mỹ để khi bị địch càn hay có vấn đề gì, có thể đem chôn dưới lòng đất, dưới lòng suối; tài liệu, kỷ vật sẽ không bị hư hỏng. Nếu khi di chuyển, hoặc vì cồng kềnh, hoặc sợ gặp địch thì giấu đâu đó để sau này tìm lại.

Bìa cuốn Nhật ký chiến tranh của nhà văn Chu Cẩm Phong,
NXB Hội Nhà Văn.
Vì thế, sau khi Chu Cẩm Phong đi công tác, tôi đã đặt thùng đại liên của anh bên ba lô tôi để có gì thì giấu hoặc xách đi như là tài sản của bản thân mình, như là một nhiệm vụ được bạn bè giao phải thực hiện. Từ khi nghe tin Chu Cẩm Phong mất, việc giữ gìn di vật của anh càng được chú ý hơn, bởi vì chúng tôi yêu anh, nghĩ có lúc sẽ gởi lại kỷ vật của anh cho gia đình. Tôi nhớ, vào đầu tháng 5/1971, sau khi anh hy sinh mấy ngày, Ban Tuyên huấn Khu báo tin xuống tiểu ban văn nghệ chúng tôi. Trưa ấy, tôi vừa đi làm rẫy về, em Tam cấp dưỡng cơ quan vẻ mặt đau buồn chạy đến báo tin:
- Anh Quế ơi! Anh Tiến hy sinh ở Quảng Đà hôm 1/5 rồi.
Tôi chạy lại chỗ anh Vương Linh, anh đang đấm ngực mình, giận giữ vì sao mình đã mủi lòng cho Chu Cẩm Phong đi. Mọi người ai cũng buồn, cũng khóc. Ai cũng hiểu Chu Cẩm Phong là một người anh gương mẫu, một người bạn chí tình, một nhà văn có khả năng tiến xa...
Từ nay, chúng tôi không còn anh nữa. Những di vật của anh đối với chúng tôi càng thiêng liêng hơn.
Tôi nhớ, sau khi anh mất một thời gian, chị P.L, người yêu của anh được ra Bắc chữa bệnh và học tập. Hình như chị cũng là một bác sĩ đi vào Nam cùng đoàn với chị Đặng Thùy Trâm. Chị đến gặp tôi và nói:
- Trước khi đi Quảng Đà, anh Tiến có ghé chỗ tôi, ảnh nói ảnh có gởi cho Quế giữ nhật ký của ảnh. Nay tôi ra Bắc, Quế cho tôi cầm ra ngoài đó giữ để bảo đảm hơn, có dịp thì gởi cho ba ảnh.
Ngày đó, tôi còn trẻ, chưa có kinh nghiệm gì trong cuộc sống, nhưng tôi nghĩ: chị P.L là người yêu của anh. Họ yêu nhau tha thiết thật, nhưng giờ ảnh mất, chắc chị rồi sẽ phải xây dựng gia đình với người khác, chị giữ nhật ký sẽ nhiều điều khó. Chi bằng mình giữ, có dịp sẽ trao lại cho gia đình. Thế là tôi nói dối:
- Đúng là anh Tiến có giao nhật ký cho tôi. Nhưng vừa qua, tôi đi công tác nên đã giao lại cho Cao Duy Thảo. Hiện Thảo lại đi Bình Định, không biết cậu ấy cất ở đâu.
Nghe tôi nói, vẻ mặt chị thoáng buồn...
Lòng tôi cũng thật áy náy. Tối ấy, tôi lên nhà tổ văn, kín đáo mở thùng đại liên lấy ra một bản viết tay bút ký Làng Tà Riềng của Chu Cẩm Phong (còn mấy bản anh đã đánh máy). Sáng hôm sau, trước lúc chị đi, tôi đưa cho chị:
- Tôi còn giữ một bản viết tay bút ký Làng Tà Riềng của anh Tiến. Bữa trước, có người ra Bắc, ảnh đánh máy, định gởi nhưng sau thấy chưa tự bằng lòng nên giữ lại. Hay chị cầm bản này kỷ niệm bút tích của ảnh... Chị thông cảm cho tôi... Chị đi mạnh khỏe nhé.
Gần đây, nhân ra họp Đại hội Nhà văn, tôi được chị P.L mời đi ăn nhà hàng cùng một số bạn, tôi đã kể lại chuyện nói dối này. Chị chỉ im lặng. Còn hồi ấy, sau khi Cao Duy Thảo đi công tác Bình Định về, tôi kể lại chuyện này cho Thảo, Thảo nói:
- Chú mày làm thế là đúng.
Sau chiến tranh, tôi đã đưa một bản đánh máy bài bút ký cho nhà văn Nguyễn Thành Long. Anh Long đưa đăng báo Văn Nghệ. Đây là bút ký cuối cùng của Chu Cẩm Phong.
Tháng 9 năm 1971, nhiều nhà văn ở lớp bồi dưỡng khóa 4 của Hội Nhà văn vào tăng cường cho Hội Văn nghệ Giải phóng khu V. Anh em chúng tôi được chia nhau đi công tác. Tôi và Trần Vũ Mai được phân đi Phú Yên. Tôi rất mừng vì từ khi vô Nam, đây là lần đầu tiên tôi được trở về quê hương. Trước khi đi, tôi nói với nhà thơ Ngô Thế Oanh, người bạn cùng tôi thuở tắm ao ở trường Học sinh miền Nam:
- Tớ có giữ nhật ký và một số thứ của anh Tiến, nay tớ đi Phú Yên. Cậu được phân ở nhà trực tạp chí, cậu thay tớ giữ, đi đâu nhớ cũng phải mang theo, có địch càn thì bằng mọi giá phải mang theo hay giấu đi thật cẩn thận.

Nhà văn, anh hùng liệt sĩ Chu Cẩm Phong (1941-1971).
Ngô Thế Oanh đã thay tôi giữ nhật ký của Chu Cẩm Phong đến hè năm 1972, mang theo cả lúc di chuyển từ Nước Nghêu đến Dốc Voi. Rồi đến lượt Oanh đi Quảng Ngãi, tôi lại giữ như vật bất ly thân. Rồi tôi lại đi Phú Yên, Oanh lại giữ mang theo xuống vùng thị trấn Trà My. Rồi Oanh đi, tôi lại giữ, mang theo từ Trà My về Trà Nô (Quế Tiên, Quảng Ngãi). Nếu khi cả hai chúng tôi đi cõng gạo hay đổi sắn ngắn ngày thì giao cho Cao Duy Thảo hay một bạn nào đó giữ. Trong thời gian chúng tôi giữ, bình thường cứ vài tháng chúng tôi thường giở ra xem có bụi, có mốc, có gì hỏng không để xử trí. Nếu có bụi thì giũ, nếu có ẩm mốc thì phơi, nhưng phơi ở nơi râm để không bị bay nét mực. Nhưng nói chung, thùng đại liên là vật giữ tài liệu rất tốt.
Tháng 2 năm 1975, tôi được phân công đi công tác ở Quảng Ngãi cùng Phan Nghĩa An. Lần này, chúng tôi được cấp trên nói sẽ là chuyến đi công tác lịch sử vì sắp tới ta sẽ mở ra những vùng giải phóng rộng lớn. Ngô Thế Oanh lại được phân trực tạp chí, nếu cần thì đi Quảng Đà, về Đà Nẵng. Tôi lại giao cho Ngô Thế Oanh giữ di vật của Chu Cẩm Phong. Và sau ngày 29/3/1975, Ngô Thế Oanh đã mang di vật của Chu Cẩm Phong về số 10 Gia Long, nay là 10 Lý Tự Trọng, Đà Nẵng.
Giải phóng Đà Nẵng được một thời gian ngắn, sau khi thông báo cho gia đình sự hy sinh của nhà văn, Ngô Thế Oanh đã vào Hội An trao nhật ký cho bà cụ thân sinh Chu Cẩm Phong, coi như nhiệm vụ và nguyện vọng của chúng tôi đã được hoàn thành.
Trong chiến tranh, có thể nói tôi và Ngô Thế Oanh, Cao Duy Thảo cũng như anh em ở cơ quan đã giữ nhật ký của Chu Cẩm Phong như giữ báu vật thiêng liêng, chỉ với ước nguyện là có ngày giao lại cho gia đình. Chỉ một lòng yêu thương đồng chí đồng đội mà lưu giữ di vật cho gia đình một liệt sĩ mà thôi, không vì một lẽ gì khác.
Dù sao, cái việc làm bình thường này cũng nói lên đồng đội Chu Cẩm Phong cũng đã rất quý trọng, gìn giữ di vật của người đã hy sinh, và vì thế đã góp phần lớn số trang cho quyển Nhật ký chiến tranh, chứ không phải quyển Nhật ký chiến tranh chỉ là do người sĩ quan Sài Gòn trao lại như người Mỹ trao lại toàn bộ Nhật ký Đặng Thùy Trâm như một số người hiện nay cho đến gần đây vẫn nhầm tưởng. Nói thế chỉ là để hiểu sự việc rõ ràng hơn mà thôi, hoàn toàn không hề có ý gì khác.
Tôi và đồng đội cũng thật sự biết ơn, rất biết ơn anh Hoàng Đình Hiếu, nhờ anh mà quyển Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong đã hoàn thiện và đầy đủ như chúng ta đang có. Viết lại những điều này thiết tưởng cũng giúp ích cho bạn đọc, nhất là các nhà nghiên cứu về Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong cũng như nền văn học cách mạng, kháng chiến của chúng ta.
Đà Nẵng, 30/4/2011
Bài liên quan: