"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy..."

Ngày 2-11-1944, máy bay của trung úy Rudolph Shaw (thuộc Phi đội 51, Không đoàn 14 đóng căn cứ ở Côn Minh - Vân Nam - Trung Quốc) bị bắn. Viên phi công Mỹ phải nhảy dù xuống một nơi gần tỉnh lỵ Cao Bằng. Quân Pháp và quân Nhật lùng bắt anh, nhưng anh được du kích Việt Nam giải cứu và đưa đến gặp Bác Hồ.

Tháng 2-1945, Bác Hồ sang Côn Minh, có Shaw đi cùng. Tại đây, Bác gặp nhiều viên chức Mỹ như thiếu tướng Claire L. Chennault, đại tá Jacques de Sibour, thiếu tá Austin Glass, đại úy Archimedes Patti, trung úy Charles Fenn…

Fenn sinh năm 1909 ở Anh. Năm 22 tuổi, anh sang Mỹ, sau đó nhập quốc tịch Mỹ. Từ 1940 đến 1943, anh sang Trung Quốc, có lúc làm phóng viên nhiếp ảnh cho hãng thông tấn Associated Press. Nhờ biết tiếng Quan Thoại nên anh được cơ quan tình báo Mỹ OSS tuyển dụng.

Năm 1973, sách Ho Chi Minh – A Biographical Introduction (Hồ Chí Minh – Giới thiệu tiểu sử) được hai nhà xuất bản Charles Scribner’s Sons (ở New York - Mỹ) và Studio Vista Books (ở London - Anh) ấn hành cùng một lúc.

Sau đây, chúng tôi trích dịch chương 8 của sách nói trên, viết về những tiếp xúc đầu tiên giữa Bác Hồ và các viên chức Mỹ trong năm 1945. Chúng tôi lược bỏ một số đoạn không cần thiết (chẳng hạn công việc của OSS, của AGAS v.v…). Đầu đề và các chú thích là của người dịch.

 Tôi làm việc cho OSS(1) ở Trung Quốc được một năm, đến năm 1944 được chỉ thị làm việc với một nhóm độc lập đang tổ chức một mạng lưới bên trong Đông Dương với các điệp viên dân sự của nước Pháp tự do(2). Nhóm này được biết dưới cái tên GBT ghép chữ đầu của tên ba người điều hành nhóm: Laurence L. Gordon (người Canada), Harry Bernard (người Mỹ) và Frank Tan (người Mỹ gốc Hoa). Trước đây, ba người này làm công cho một hãng dầu ở Sài Gòn, cả ba đều đáng khen theo kiểu của mình. Họ sử dụng những người Pháp mà họ tiếp xúc được một cách tuyệt vời đến độ không một nhóm tình báo nào, kể cả quân sự lẫn dân sự, có thể sánh với thành tích thu thập và phổ biến tin tức của họ.

…Thời gian sau, nhóm GBT nhận tiền và trang bị của OSS cũng như của một tổ chức khác của Mỹ là AGAS(3), công tác của tổ chức này gồm có giải cứu những phi công bị bắn rơi, liên lạc với tù binh chiến tranh và thu thập tin tình báo.

pic

 Bìa sách Ho Chi Minh – A Biographical Introduction

Khi OSS quyết định mở rộng hoạt động của họ vào Đông Dương, họ muốn tiếp quản nhóm GBT và bước đầu tiên của họ là chỉ định tôi làm việc với nhóm (…) Nhóm GBT chuyển về AGAS cùng với công việc của tôi.

Việc này vừa mới dàn xếp xong thì cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 khiến nhóm GBT và toàn bộ mạng lưới phải nằm im. Điều đó có nghĩa là không còn những thông tin về mục tiêu, về sự phòng không, về sự di chuyển của quân Nhật, cũng không còn những báo cáo thời tiết. Do đó, Tổng hành dinh [của Mỹ ở Trung Quốc] chỉ thị tôi phải thay những điệp viên người Pháp không còn nữa bằng một mạng lưới người Việt.

Ở Côn Minh có nhiều người Việt, nhưng vì trước đây chúng tôi được cảnh báo là không được dùng họ, nên chúng tôi không có ý niệm rằng ai là người có ích và đáng tin cậy. AGAS nói với tôi về một người Việt Nam lớn tuổi không chỉ đã cứu giúp một phi công bị bắn rơi mà còn có liên kết với một nhóm chính trị lớn. Người ta nói rằng ông ấy vẫn còn ở Côn Minh và đôi khi thấy ông ấy ở trụ sở AOWI(4) để đọc mọi thứ, từ tạp chí Time đến Từ điển Bách khoa Mỹ (The Encyclopedia Americana). Tôi nhắn với một người bạn của tôi cố dàn xếp một cuộc gặp với ông ấy. Một vài ngày sau, tôi được biết tin ông ấy. Ông tên là Hồ, muốn gặp tôi chiều nay. Nhật ký của tôi ngày 17-3 [1945] chép:

“Hồ đến cùng một người trẻ tuổi hơn là Phạm [Văn Đồng]. Hồ không như tôi tưởng. Trước hết, ông không thực sự “già”: chòm râu bạc cho ta biết tuổi của ông, nhưng gương mặt khỏe mạnh, đôi mắt sáng long lanh. Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp. Dường như ông đã gặp Hall, Glass và de Sibour [các sĩ quan OSS] nhưng không đạt kết quả gì. Tôi hỏi ông muốn gì ở họ. Ông nói: chỉ muốn họ công nhận nhóm của ông (gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh hay Việt Minh). Tôi đã nghe phong thanh tổ chức này là cộng sản và tôi hỏi ông điều đó. Ông nói: Pháp gọi tất cả những người Việt Nam mong muốn độc lập là cộng sản. Tôi kể cho cho ông nghe công việc của chúng tôi và hỏi ông có thích giúp đỡ chúng tôi không. Ông nói nhóm của ông có thể làm được, nhưng không có người sử dụng điện đài và dĩ nhiên không có thiết bị gì cả. Chúng tôi thảo luận việc đưa vào [Việt Nam] một điện đài, một máy phát điện và một người sử dụng các máy đó. Ông nói máy phát điện có thể gây nhiều tiếng động, trong khi bọn Nhật luôn có mặt xung quanh; sao chúng ta không dùng loại điện đài chạy bằng pin như người Tàu vẫn dùng? Tôi giải thích: loại máy ấy quá yếu, không thể dùng cho khoảng cách xa, nhất là khi pin yếu. Tôi hỏi ông muốn những gì khi giúp chúng tôi. Ông nói: vũ khí và thuốc men. Tôi nói: vũ khí thì khó, vì e Pháp [phản đối]. Chúng tôi thảo luận vấn đề Pháp. Ông nhấn mạnh: Việt Minh chỉ chống Nhật(5). Tôi ấn tượng bởi cách nói dứt khoát của ông, ông điềm tĩnh như đức Phật, ngoại trừ những cử động của các ngón tay da nâu và nhăn của ông. Phạm [Văn Đồng] ghi chép. Chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau một lần nữa. Họ ghi tên họ bằng chữ Tàu được La tinh hóa: Fam Fuc Pao và Ho Tchih Ming”.

Sau buổi gặp đó, Harry Bernard và Frank Tan đồng ý rằng: nếu có thể làm được một điều gì đó thì chúng tôi sẽ đưa ông Hồ về lại Việt Nam và một trong những nhân viên điện đài người Hoa của chúng tôi sẽ đi theo ông. Có người gợi ý rằng Tan sẽ đi cùng với ông. Ba ngày sau, tôi sẵn sàng để dàn xếp chuyện đó.

“Ngày 20-3:
Có một cuộc gặp gỡ lần thứ hai với những người Việt Nam ở quán cà phê Đông Dương trên đường Chin Pi. Hình như chủ quán là bạn của họ(6). Chúng tôi ngồi trên gác và uống cà phê phin theo kiểu Pháp, đậm và rất ngon. Căn phòng vắng người nhưng ông Hồ nói khách hàng có thể vào. Chúng tôi thỏa thuận dùng vài từ: người Tàu thì gọi là “bạn”, người Mỹ là “anh em”, người Pháp là “người trung lập”, người Nhật là “người chiếm đóng”, người Việt Nam là “người bản địa”. Ông nói về việc đưa hai người Hoa sang [Việt Nam], một trong hai người ấy là người Mỹ gốc Hoa, điều đó có thể gặp khó khăn vì chắc chắn họ sẽ dễ bị nhận diện. Nhóm của ông có khuynh hướng nghi ngờ người Hoa. Nhưng vì không có nhân viên điện đài người Việt Nam nên đành phải sử dụng người Hoa. Song thay vì lấy Frank Tan, ông sẽ đi với một người và sau đó chúng tôi sẽ thả dù một sĩ quan người Mỹ. Ông hỏi tôi có muốn đi [Việt Nam] không? Tôi đáp tôi muốn. Ông nói nhóm của ông sẽ hoan nghênh tôi. Rồi chúng tôi thảo luận chuyện tiếp tế. Phạm [Văn Đồng] đề cập tới “chất nổ mạnh” mà Hall đã nói với anh. Tôi cố làm nhẹ bớt chuyện này, nhưng đồng ý rằng chúng tôi sau này có thể thả dù xuống vũ khí nhẹ, thuốc men và thêm nhiều điện đài nữa. Nhân viên của chúng tôi có thể huấn luyện một vài người của ông Hồ sử dụng các máy móc đó. Ông cũng muốn gặp Chennault(7). Tôi đồng ý thu xếp việc đó, nếu ông Hồ đồng ý không yêu cầu Chennault điều gì: không đòi hàng tiếp tế, cũng không đòi [Mỹ] hứa hẹn ủng hộ [Việt Minh]. Hồ đồng ý. Ông già(8) mặc quần vải theo kiểu Tàu và áo cài nút đến cổ, màu vàng nhạt, chứ không phải màu xanh. Ông mang dép dây da theo kiểu thường dùng ở Đông Dương. Râu ông bạc và thưa, nhưng lông mày của ông màu nâu nhạt ngả sang màu xám ở cuối, tóc ông hầu như vẫn còn đen nhưng thưa. Người thanh niên họ Phạm mặc bộ đồ Tây, có xương gò má cao và cằm khỏe. Cả hai nói chuyện một cách nhẹ nhàng nhưng đôi khi họ phá lên cười khúc khích. Chúng tôi làm việc với nhau rất ăn ý”.

Áp phích của Việt Minh hướng dẫn nhân dân cứu giúp phi công Mỹ bị nạn: “Quân đội Mỹ là bạn ta/ Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh”

… Sau khi thu xếp để giới thiệu ông Hồ với Chennault như một “người bản xứ” đã cứu giúp Shaw, tôi đưa Tan cùng đi gặp ông tại nơi mà ông và Phạm [Văn Đồng] ở trong một căn phòng trên một cửa hàng bán nến. Tầng dưới đầy những cây nến nhỏ đủ màu: đỏ, trắng, cam với một chậu sáp sắp sôi đặt trên một bếp lò ở phía sau. Hồ và Tan hợp với nhau nên ông già đồng ý đưa Tan theo [về Việt Nam]. Tan bây giờ sẵn sàng cho chuyến đi. Bernard bảo anh ta chỉ mang theo những gì cần thiết: một điện đài, một súng lục, một ít quà nhỏ. Nhưng Tan khăng khăng đòi mang theo đủ thứ…

Buổi gặp Chennault diễn ra mấy ngày sau đó.

Bernard và tôi phải đi đón Hồ vào lúc 10 giờ 30 sáng 2-3 để tới chỗ hẹn vào lúc 11 giờ. Tôi để ý thấy ông đã thay một cái nút bị thiếu trên áo vải của ông, chắc chắn là vì dịp long trọng này. Khi chúng tôi tự giới thiệu ở phòng ngoài của Chennault, người ta bảo thiếu tướng đang bận. Lúc đó, cô thư ký [Doreen] xuất hiện và trấn an chúng tôi rằng ông ta không bận lâu lắm đâu. Năm phút sau, chúng tôi bước vào văn phòng của Chennault. Doreen mang ra hai ghế, còn Chennault đặt chiếc ghế thứ ba rất lịch sự. Rồi ông tới ngồi sau bàn giấy lớn bằng một cái giường đôi. Năm người, mỗi người một vẻ: Chennault mặc quân phục rất sang trọng, đeo huân chương; Bernard mặc quần soọc và áo sơ mi bằng vải kaki; tôi thì mặc áo có thắt lưng bằng vải gabácđin, đội nón Thủy quân lục chiến; ông già Hồ mặc áo dài bằng vải bông, mang dép săng đan; Doreen mặc đồ kaki có lẽ do Saks Fifth Avenue may và chở sang bằng máy bay đặc biệt.

Chennault nói với ông Hồ rằng ông ta rất biết ơn về việc cứu viện phi công. Ông Hồ nói ông luôn vui lòng được giúp người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông rất ngưỡng mộ. Hai người chuyện trò về đội Phi Hổ (Flying Tigers)(9). Chennault hài lòng về việc ông già biết chuyện đó. Chúng tôi nói về việc cứu thêm những phi công nữa. Không ai nói gì về Pháp hay về chính trị. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi chúng tôi chuẩn bị ra về. Bỗng ông Hồ nói ông xin thiếu tướng một ân huệ nhỏ. “Bây giờ chúng ta về thôi, cầm lấy mũ lên đi”, nét mặt của Bernard muốn nói lên câu đó. Tất cả những gì ông Hồ muốn là một tấm ảnh của thiếu tướng. Chennault chẳng thích gì hơn là tặng ảnh.

Vì vậy ông nhấn chuông và Doreen bước vào. Đúng lúc đó, một cô gái khác mang đến một tập ảnh bóng loáng cỡ 8x10. Chennault nói: “Ông hãy chọn đi”. Ông Hồ lấy một tấm ảnh và hỏi liệu thiếu tướng có vui lòng ký tên vào tấm ảnh. Doreen đưa một cây bút máy hiệu Parker 51 và Chennault viết ở dưới tấm ảnh: “Thân mến, Claire L. Chennault”. Và chúng tôi kéo nhau ra về trong không khí lấp lánh của Côn Minh.

… Bernard dàn xếp với Ban hành quân của Không đoàn 14 để có hai chiếc L-5, loại máy bay taxi nhỏ mà chúng tôi vẫn dùng lúc đó. Hồ bay xuống biên giới [Việt Nam – Trung Quốc] trong một máy bay với Mac Sin, nhân viên điện đài người Hoa. Một hay hai ngày sau, Tan bay trong máy bay thứ hai với tất cả thiết bị. Có một đường băng cho máy bay ở Tĩnh Tây(10) và từ đó họ sẽ đi bộ vào [Việt Nam]. Phạm [Văn Đồng] ở lại Côn Minh để làm công tác liên lạc. Khi tôi đến gặp Hồ để biết mọi chuyện dàn xếp này, ông đề nghị thêm một ân huệ nữa: 6 khẩu súng lục tự động hiệu Colt.45 mới tinh còn nguyên trong bao bì.

Khi Bernard và tôi tiễn Hồ ra sân bay và đưa ông lên chiếc máy bay sẽ mang ông vượt 300 dặm núi rừng, ông nói đây là lần thứ ba ông đi máy bay. Khoảng một tuần sau, Mac Sin liên lạc với chúng tôi bằng vô tuyến. Chúng tôi biết được: Hồ đã vượt biên giới và về tới căn cứ của ông đặt trong một hang đá. Ông đã gửi 20 người của ông đi hộ tống Tan và Mac Sin để bảo vệ họ không chỉ chống bọn Nhật mà còn chống lại bọn cướp nữa. Một thời gian sau, chúng tôi nhận được báo cáo đầu tiên của Tan: “Những người hộ tống đến ngày 15-4 và 4 giờ sáng hôm sau chúng tôi lên đường, ăn mặc như những người buôn lậu qua biên giới với toàn bộ thiết bị đựng trong các giỏ tre để người khác tưởng rằng chúng tôi là dân buôn bán bất hợp pháp ở vùng biên giới. Chúng tôi đi bộ dọc theo biên giới tới 15 giờ, ăn uống rồi chờ cho đến khi trời tối mới rẽ về phía biên giới. Chặng đường này nổi tiếng cướp bóc, vì vậy khi vượt biên, chúng tôi tháo súng ra khỏi bao và cầm sẵn trên tay”. Tan còn mô tả chuyến đi gian khổ và nguy hiểm đã đưa họ về tới căn cứ của Hồ trong hang Pác Bó(11), một túp lều ở lối vào một thác nước. Các thành viên của Việt Minh đến túp lều này để trao đổi ý kiến. Tan viết: “Tôi có thể đánh giá rằng Việt Minh rất mạnh và có cả mấy trăm hội viên. Trước khi rời Tĩnh Tây, tôi được nhà cầm quyền Trung Quốc cảnh báo rằng phần lớn họ là cộng sản và chúng tôi phải biết điều mà chúng tôi sẽ bị nhiễm. Dĩ nhiên người Tàu nhìn sự vật theo quan điểm của Quốc Dân Đảng [Trung Hoa]”. Bây giờ, Pháp cũng làm ầm lên chuyện chúng ta làm việc với Hồ và tôi bị AGAS yêu cầu phải viết báo cáo. Khi Tổng hành dinh nhận được báo cáo, chúng tôi được lệnh cứ tiếp tục công việc…