Nếu tôi nhớ không nhầm, thì có hai nhà văn được giải Nobel đã tự tử: Kawabata - nhà văn Nhật Bản tự tử năm 73 tuổi; Hemingway - nhà văn Mỹ tự tử năm 62 tuổi, sau cuộc đời lãng mạn phiêu lưu, tìm nguy hiểm để tự thử thách mình.
Hemingway đã tự tử bằng súng trường.
Ông không học đại học, bản thân tự học là chính. Ông tình nguyện đi làm cứu thương trên mặt trận Ý vào năm 1917 và bị thương nặng. Ông qua nhiều nước, đặc biệt ở Pháp, làm thông tín viên báo chí. Cuốn Mặt trời vẫn mọc (1926), tiểu thuyết đầu tay của ông khi vừa xuất bản lập tức trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Bằng bút pháp hiện thực, ông miêu tả cuộc sống không nội dung, không mục đích trước và sau thế chiến I của nhóm nhà văn Mỹ sống lưu vong ở Paris. Giã từ vũ khí (1929) là một tiểu thuyết chống chiến tranh, nêu lên tính vô nhân đạo của chủ nghĩa quân phiệt. Chuyện kể về một sĩ quan trẻ bị thương, đào ngũ, trốn đi cùng người yêu là nữ cứu thương, nhưng người yêu chết. Chính chiến tranh là thủ phạm phá hoại hạnh phúc. Hemingway tiêu biểu cho thế hệ bị mất (lost generation) của một số nhà văn Mỹ vào những năm 1920, mất hết lý tưởng và tin tưởng, lạc lõng và lạc loài.
Trong 10 năm, 1929-1939, Hemingway say mê xem đấu bò tót ở Tây Ban Nha để viết Chết vào buổi chiều (1932), săn thú rừng ở châu Phi (Những ngọn đồi xanh châu Phi, 1935), câu cá ở biển Caribe. Ông cho săn bắn và đấu bò là một cuộc thử thách và phương tiện để tìm hiểu cái chết. Ông làm phóng viên mặt trận trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936), ca ngợi nhân dân anh hùng trong cuốn Chuông nguyện hồn ai (1940) và vở kịch phản gián Đội quân thứ năm (1938). Cuốn tiểu thuyết ngắn Có và không có (1937) nêu một cảnh chua chát của thời kinh tế khủng hoảng, phê phán xã hội, nói lên nỗi băn khoăn của tác giả. Ngay từ Đại hội thứ hai của các nhà văn Mỹ, ông đã lần đầu tiên công khai công kích chủ nghĩa phát xít. Trong thế chiến II, ông làm thông tín viên mặt trận ở Anh và Pháp, theo du kích vào giải phóng Paris. Bên kia sông và trong rừng cây (1950) kể lại tình yêu và cái chết của một viên tướng bị giáng xuống cấp tá ngay sau chiến tranh. Truyện ngắn Ông già và biển cả (1952) ca ngợi con người chiến thắng thiên nhiên, đó là một tác phẩm nổi tiếng thế giới. Từ nỗi buồn của “thế hệ bị mất”, Hemingway đã chuyển biến, ca ngợi sức mạnh tinh thần của con người đương đầu với thiên nhiên trong cuộc vật lộn cô đơn mà ác liệt.
Là con người của hành động, Hemingway viết văn kiểu “điện tín”, ngắn gọn, chính xác, giản dị, đóng góp nhiều vào văn phong hiện đại.
Chuông nguyện hồn ai, tiểu thuyết ra đời năm 1940, phản ánh tâm hồn người trí thức những năm 1930, nhu cầu dấn thân của họ cho một lý tưởng, ngược với thái độ chán chường, thất vọng trong những năm 1920 của chính Hemingway. Cuốn tiểu thuyết này mang phong cách không khô khan như ông thường viết mà đầy chất trữ tình lãng mạn, thể hiện thân phận của con người trong trò chơi của tình yêu và cái chết. Bối cảnh câu chuyện là cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939). Robert Jordan, một giáo sư đại học Mỹ có lý tưởng sang Tây Ban Nha để đứng về phía Cộng hòa chiến đấu. Nhiệm vụ của anh là phá sập một cây cầu chiến lược. Anh gia nhập đội du kích do Pablo và vợ là Pilar chỉ huy. Pilar, một nữ nông dân cương nghị, là hiện thân của nước Tây Ban Nha và ý chí tự do. Jordan yêu cô Maria, cô du kích đã từng bị bọn phát xít cưỡng hiếp. Trong ba ngày chung sống, mặc dù thần chết kề bên họ, hai người yêu nhau nồng nhiệt, quên cả thời gian và chiến tranh. Bọn phát xít dẹp tan đội du kích bên cầu, Jordan biết là dù làm nổ cây cầu lúc này cũng là vô ích, nhưng bộ tổng tham mưu đã quyết định, anh vẫn thi hành mệnh lệnh. Cầu bị sập nhưng anh bị gãy một chân. Anh lệnh cho mọi người rút lui, mình anh ở lại rìa rừng, đợi địch. Tuy muốn sống, nhưng anh chấp nhận cái chết. Cuốn tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai có thể coi là một tác phẩm “chuộc lỗi”, sám hối của tác giả, chuyển sang con đường dấn thân, ngược với giai đoạn trước mà ông sống, sống như người vô trách nhiệm với xã hội. Những nhân vật trong tác phẩm có tính cách giống như bản thân ông từng giai đoạn, thường bị ám ảnh bởi cặp biện chứng “sợ hãi - can đảm” hay “cứng rắn - yếu mềm”.
Sau đây xin trích dẫn một số câu thể hiện tư duy của Hemingway:
- Cái hợp luân lý là cái mà về sau ta thấy là tốt, còn cái vô luân là cái mà về sau ta thấy là xấu.
- Liều thuốc bách bệnh của một quốc gia cai trị tồi là lạm phát, liều thứ hai là chiến tranh. Cả hai liều thuốc cũng đều mang lại một sự thịnh vượng nhất thời. Cả hai đều mang lại một sự tàn phá vĩnh viễn. Cả hai đều là nơi ẩn nấp của bọn cơ hội chính trị và kinh tế.
- Minh triết của người già là một sai lầm lớn. Không phải các cụ đã trở nên minh triết hơn, mà các cụ chỉ trở nên thận trọng hơn.
- Khi thất bại, người ta trở thành con chiên đạo Thiên Chúa.
- Nếu bạn có may mắn tuổi trẻ sống ở Paris, rồi từ sau đó đi bất cứ nơi nào cho đến khi chết, thì điều đó sẽ mãi mãi ở lại trong tâm trí bạn, vì Paris là một địa điểm hội hè.
- Mèo có tính lương thiện tuyệt đối: con người vì lý do này hay lý do khác che giấu cảm xúc của mình. Mèo thì không.
- Cái chết chỉ xấu xa khi nó kéo dài và nó gây đau đớn đến mức mình tự cảm thấy bị sỉ nhục.
- Tại sao người già lại dậy sớm? Phải chăng để có những ngày dài hơn?
- Anh nhìn bao quát mặt bể và thấy sự cô đơn không bờ bến của mình.
- Chúng ta phải làm quen với điều này: ở những ngã ba đường quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta thì không có biển chỉ đường.
- Điều viết ra duy nhất có giá trị là cái mà ta tạo ra… Chính cái đó lại làm ra hiện thực.
- Người ta đã nghe quá nhiều những truyện tàn ác cho nên không cảm xúc bởi những truyện có thật.
- Không nên nhận xét một người dựa vào những mối quan hệ của người ấy. Ta đừng quên là tên Judas (phản bội Jesus) đã có những người bạn rất tốt.
- Dù một cuộc chiến tranh là cần thiết hay chính nghĩa, không bao giờ nên coi chiến tranh không là một tội ác.
- Tôi thích lắng nghe. Điều đó khiến tôi học được rất nhiều. Rất nhiều người không bao giờ chịu lắng tai nghe.