Huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, có nhiều làng xã nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Làng Vẻn, quê hương của nữ tướng Lê Chân thời Hai Bà Trưng. Làng An Sinh, nơi đặt lăng mộ các vua Trần. Làng Phúc Đa, quê hương của hai anh em nhà thơ Trần Đình Thâm và Trần Công Cận; đặc biệt Trần Đình Thâm là nhà ngoại giao cự phách ở thời Trần, chỉ qua một cuộc đối đáp ở triều đình nhà Minh khi sang sứ Trung Quốc, tháng 9 năm Đinh Tỵ (1377) mà vua Hồng Vũ nhà Minh phải ra lệnh bãi bỏ cuộc nam chinh đang được chuẩn bị, bớt cho dân tộc ta bao nhiêu xương máu. Và làng Bắc Mã, quê hương chiến khu Trần Hưng Đạo anh hùng của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại năm 1945.
Có những làng xã vô cùng nổi tiếng vẻ vang như thế, nhưng có một làng rất nổi tiếng khác mà ngày nay chúng ta ít nói đến là làng An Bài, quê hương của tên tướng giặc Phạm Nhan. Dân gian ai cũng thuộc tên hắn, cũng biết tên quê hắn, vậy thì chúng ta cũng nên biết vì tính khách quan của lịch sử. Hắn rất nổi tiếng là tàn ác, lại càng nổi tiếng khi được chính Hưng Đạo vương chém đầu! Được Hưng Đạo vương chém đầu, cũng là một vinh dự lớn cho cuộc đời phản bội của hắn!
Đã có một quyển sách nổi tiếng từ thời Lê, trong đó có một truyện ký viết riêng về Phạm Nhan. Tác giả là Trần Trợ. Lúc nhà văn Trần Trợ viết về hắn, làng An Bài vẫn còn có miếu thờ hắn ở bên bờ sông Kinh Thầy. Đó là cuốn Tục biên Công dư tiệp ký (viết tiếp Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề), bản in mới nhất là của Nhà xuất bản Văn học năm 2008, do PGS-TS Nguyễn Đăng Na, một chuyên gia hàng đầu của văn học Hán - Nôm Việt Nam và Nguyễn Thanh Chung dịch, Nguyễn Đăng Na giới thiệu. Nhà văn Trần Trợ là người làng Điền Trì, huyện Chí Linh (nay là thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông là Trợ giáo Thái tử (do đó gọi là Trợ), Viên ngoại lang bộ Lại thời cuối Lê, tên ông tự ghi trong Niên phả lục là Trần Quý, gia phả ghi là Trần Nha, lịch sử văn học trung đại Việt Nam và sách giáo khoa ghi tên ông là Trần Quý Nha. Ông là con của Trần Tiến, tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748), nhà văn, nhà sử học, Lễ bộ Thượng thư, Phó đô Ngự sử; là cháu của Trần Cảnh, tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718), nhà nông học đầu tiên của Việt Nam, Tham tụng, Lễ bộ Thượng thư; là chắt của Trần Thọ, tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670), nhà thơ, nhà ngoại giao, Tham tụng, Hình bộ Thượng thư.
Trong truyện ký Phạm Nhan, Trần Trợ cho biết tên hắn là Bá Linh, họ Nguyễn. Phạm Nhan là tên chữ khi hắn đi thi và ra làm quan. Sau này, anh hùng dân tộc Nguyễn Thiện Thuật, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, khi làm thơ động viên nhân dân đánh giặc Pháp đã viết về giặc Pháp: “Độc ác còn hơn cả Bá Linh”, tức là hơn tên này. Cháu Trần Trợ là Trần Tấn, một tiểu tướng của Nguyễn Thiện Thuật, đã hy sinh năm 1887, khi chống giặc Pháp càn, để bảo vệ căn cứ Bãi Sậy.
Cha của Nguyễn Bá Linh là người Quảng Đông, Trung Quốc, sang buôn bán ở chợ Đông Hồ (chợ Cột - Đông Triều sau này), lấy vợ ở làng An Bài rồi sinh ra hắn tại đây. Lớn lên hắn về quê cha học thêm rồi đi thi, đỗ tiến sĩ. Vốn có tài làm thuốc, hắn được tuyển vào cung, rồi thông dâm với một cung nữ được vua sủng ái, bị khép án chém đầu. Đúng lúc đó, vua Nguyên khởi binh đánh Đại Việt lần thứ 3, hắn xin lấy công chuộc tội, vì hắn rất thông thuộc “sào huyệt” của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Vua Nguyên ưng, phong hắn làm tướng tiên phong, cùng Nguyên soái - Bình chương sự Ô Mã Nhi, theo Tiết chế Trấn Nam vương Thoát Hoan, con vua Nguyên, dẫn quân theo đường Lạng Sơn đánh thẳng vào Vạn Kiếp. Đây là đạo quân mạnh nhất của giặc. Các con của Hưng Đạo vương, trong đó có Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng theo cha đánh giặc ở phòng tuyến này.
Trong trận đối đầu với quân Nguyên, mà hắn là một trong hai chủ tướng, ở ải Phú Lương ngày 14-3 năm Đinh Hợi (1287), Hưng Đạo vương phải lui quân vì thấy thế địch rất mạnh. Được đà, Phạm Nhan kéo quân chiếm Vạn Kiếp, rồi từ Vạn Kiếp đánh về Đông Triều, dọc đường đã tàn sát nhân dân ta vô cùng dã man. Thêm một căn cứ để bác bỏ ý kiến cho rằng vua Trần Nhân Tông đã đóng quân ở làng Đức Sơn xã Yên Đức, cùng bản huyện, vì đây là vùng đất kiểm soát của Phạm Nhan. Vua Trần đã kéo quân Thánh Dực từ phía Thái Bình về, qua Kiến An, vào trận Bạch Đằng từ phía bên kia sông, nay thuộc Thủy Nguyên, Hải Phòng. Bất cứ ai đến vùng này vẫn còn nhận ra những dấu ấn còn lưu lại chiến tích đó của vua Trần và Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương.
Đến khi vào trận Bạch Đằng, chiều ngày 8-3 năm Mậu Tý, tức ngày 9-4-1288, Phạm Nhan bị bắt sống. Trước khi chết, hắn xin được đưa về An Bài để lạy tạ đất mẹ đã sinh ra hắn và xin được Hưng Đạo vương chém đầu hắn tại đây. Có lẽ vì thế chăng, mà xã An Bài sau này mang tên Hưng Đạo. Theo truyện kể, quân sĩ chém đầu này, hắn lại mọc đầu khác, cho đến khi Hưng Đạo vương chém mới đứt hẳn. Vương cho vứt xác hắn xuống sông, vì không có tấc đất nào có thể chôn hắn được. Sau đó, từng mảnh xác thân hắn rữa ra biến thành những con đỉa, chuyên đi hút máu người. Đặc biệt thứ máu hắn ưa thích nhất là máu đàn bà đẻ.
Ngẫm lại mới thấy chuyện kể đó của nhà văn Trần Trợ là vô cùng sâu sắc, thấm thía và rất hiện đại.