HV111 - Người Việt ở xứ người đón Tết Việt

Tôi không biết hiện nay, số lượng người Việt ở nước ngoài là bao nhiêu? Năm 2012, theo con số của Học viện Ngoại giao, chúng ta có hơn 4 triệu kiều bào. Tính trung bình - cũng theo con số của các cơ quan chức năng - mỗi năm có hơn 100.000 người Việt di cư ra nước ngoài. Như thế, con số thực của người Việt ở nước ngoài sẽ còn lớn hơn nữa và mỗi năm sẽ lại tăng lên. Ấy là chưa kể còn những người đi học tập, đi xuất khẩu lao động, rồi những người đi công tác, đi du lịch rồi ở lại. Không thể biết được con số ấy là bao nhiêu.

Tìm nhà người Việt ở nước ngoài không khó lắm. Cũng chẳng cần phải tra cứu qua các cơ quan phụ trách ngoại kiều, hay những người dân ở từng khu phố. Chỉ cần nhìn vào cửa sổ của các căn nhà hay các khu chung cư, cứ thấy nhà nào có ăng ten parabol chìa ra thì chắc chắn đó là nhà của người Việt rồi. Người Việt ở xa nên luôn hướng về quê nhà. Ở trong nước, có khi nghe đài hay xem truyền hình, ta cũng thường chỉ lướt qua chương trình Thời sự. Nhưng ở nước ngoài, chỉ cần nghe tiếng Việt đã thấy ấm lòng. Một điệu chèo, một khúc vọng cổ hay câu Nam Ai, Nam Bình cũng đã đủ làm ta rơi nước mắt.

Nhớ nhà nhất là vào mỗi dịp Tết. Bởi Tết là ngày đoàn tụ gia đình. Dù xa xôi cách trở tới đâu, dù bận rộn thế nào, cứ đến ngày Tết là người ta lại phải tìm đường trở về quê hương, về với gia đình, với ông bà, tiên tổ. Người sống trở về. Người chết cũng trở về. Ngày Tết, ở các làng quê hay các xóm bản, người ta thường dựng trước cửa nhà một cành Phan. Trên ngọn Phan, phất phơ mấy rảnh lá tre, hay mấy tua vải xanh đỏ. Đấy là những tín hiệu để linh hồn người chết nhận ra đường mà trở về với con cháu.

Ấy vậy mà, có không ít người vẫn còn đang sống, ngày Tết vẫn không về được quê hương. Đó là những người xa xứ. Tết không về được quê thì đành mang cái Tết quê đi theo.

Tôi không biết đồng bào ta ở các nước khác thế nào, còn ở nước Nga, người Việt đón đến... hai cái Tết. Tết Tây và Tết Ta. Tết Tây là ngày mồng 1 tháng 1 dương lịch. Người Nga chỉ nghỉ Tết một ngày. Chính vì thế, mà cái Tết vèo qua rất nhanh. Đối với người Việt còn chưa quen phong tục ấy, thì nó như một giấc mơ đẹp dang dở. Nhưng để có giấc mơ ấy, người Nga đã rục rịch chuẩn bị trước hàng tháng trời. Trên đường phố, hay trong các cửa hàng cửa hiệu, vào trung tuần tháng chạp, người ta đã thấy phấp phới những tấm băng đỏ chào mừng Năm Mới. Rồi những cây thông nhựa treo bùng biêng những ông già Tuyết, những quả thủy tinh nhóng nhánh nhiều màu. Rồi kẹo. Rồi bánh. Rồi đồ chơi dành cho trẻ con. Nhìn vào đâu cũng tưng bừng, náo nhiệt. Ở Việt Nam, ngày Tết, người ta thường đến nhà nhau, thăm hỏi, chúc tụng, cầu cho nhau luôn gặp được những điều tốt lành. Mình đến nhà bạn chúc tết, trong khi bạn cũng lại đến nhà mình. Thế là cả hai đều không gặp được nhau, đều nhông nhông trên đường. Nhưng như thế lại vui. Tết mà. Tết Việt Nam là thế. Là cứ bung ra đường. Tết ở ngoài đường, ngoài phố. Còn ở nước Nga thì ngược lại. Người ta ít ra đường, cũng không đến nhà nhau. Tết Nga lại co vào trong nhà. Đấy là cái tổ ấm chỉ vợ chồng, con cái vui vẻ với nhau. Người ta cũng bày cây thông, trang trí lại nhà cửa, nấu những món ăn cổ truyền. Người Nga không thích tiếp khách trong nhà riêng vào những ngày Tết ấy. Đúng khoảnh khắc giao thừa, người ta chúc nhau qua điện thoại hoặc qua những cánh thiếp đã gửi đi từ mấy ngày trước đó. Còn ở các ký túc xá sinh viên có người nước ngoài thì thật náo nhiệt. Họ nhảy múa, ca hát tưng bừng ở trong phòng, rồi tràn cả ra hành lang chói chang ánh điện. Một anh chàng xúng xính trong bộ áo quần ông già Tuyết, chống cây gậy bịt giấy bạc đi dọc hành lang. Phía sau là một cô gái Tuyết lộng lẫy, tay xủng xoẻng lắc sắc sô, vừa đi vừa nhún nhảy, gặp phòng nào cũng gõ cửa, rồi ném kẹo vào. Ấy là món quà đầu xuân của ông già Tuyết.

Vào một ngày như thế, tôi tìm đến ký túc xá của sinh viên Việt Nam ở Trường đại học Tổng hợp Mátxcơva (MGU). Khi cuộc vui tàn thì trời đã khuya lắm. Lúc ấy đã gần 2 giờ đêm. Thời gian này, các phương tiện giao thông công cộng đều đã ngừng hoạt động. Ngày Tết có thể khác chăng? Tôi rời ký túc xá của bạn. Đường phố vắng ngắt, không một bóng người. Trời âm 30 độ. Tuyết bay mù mịt. Những rặng táo ven trường MGU đã trụi hết lá, tuyết đắp trắng xóa. Tôi có cảm giác như mình đang lang thang trong một rừng san hô ở dưới đáy đại dương. Đi loanh quanh một lúc thì tôi nhận ra mình đã lạc đường. Giữa gió tuyết mà lại lạc đường thì nguy hiểm lắm. Hai chân tôi đã tê dại trong đôi ủng nặng chịch. Mặt rát bỏng vì lạnh. Mũi nghẹt lại, rất khó thở, vì băng đã đóng lạo xạo ở trong mũi. Tôi vừa há mồm thở hổn hển vừa lê bước ậm ạch trên con đường vắng ngắt. Có lẽ mình sẽ chết ở đây chăng? Với cái lạnh 30 độ âm khủng khiếp thế này, chết là cái chắc rồi. Tôi thoáng rùng mình. Xin Chúa hãy cứu con! Tôi thầm kêu lên thế. Mặc dù trong thâm tâm tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không? Hoặc nếu có Chúa thì liệu Chúa có cứu được con người trong lúc này không?

Thế rồi, như một sự ứng nghiệm, phía trước mặt bỗng chóa lên hai luồng sáng. Một chiếc xe buýt phóng như bay. Đèn trong xe sáng choang. Nhưng trên xe không một bóng hành khách. Thấy tôi, chiếc xe phanh xịt lại.

- Về đâu?

Người lái xe thò đầu ra khỏi cửa kính. Tôi hét to:

- Đại lộ Lômônôxốp. Nhà số 3, korơpúc 1!

- Lên đi!

Người lái xe giục. Nhưng tôi lại ngần ngừ. Xe số 172. Chiếc xe này tuyến khác. Nó không đi qua khu ký túc xá của tôi.

- Lên đi! - Người lái xe lại giục - Tôi đưa anh về mà!

Cửa xe tự động mở toang. Chỉ có một mình tôi làm hành khách. Vậy mà nhạc vẫn mở tưng bừng. Giọng Anna Pugátsôva vang lên trong bài hát Chúc mừng năm mới quen thuộc. Theo thói quen, tôi lần ra phía cửa, định bỏ 5 kôpếch vào thùng sắt, rồi tự xé vé. Người lái xe xua tay:

- Thôi, hôm nay là Năm Mới. Anh không phải mua vé.

Ngừng một lát, người lái xe hỏi:

- Anh người đâu? Mông Cổ? Trung Quốc hay Triều Tiên?

- Tôi ở Việt Nam!

- Ồ, Việt Nam. Người anh em Việt Nam! - Anh chàng lái xe giơ một ngón tay lên - Bố tôi trước đây nhiều lần sang Việt Nam. Ông cụ là thủy thủ. Trong những năm chiến tranh, ông cụ từng chở hàng viện trợ sang cảng Hải Phòng. Anh có biết Hải Phòng không?

Cứ như thế, chuyện nổ như pháo ran. Phải công nhận anh chàng lái xe thật hay chuyện. Anh nói bao nhiêu chuyện. Giọng ồm oàm trong vòm râu rậm rịt. Đến cửa ký túc xá của tôi, anh dừng xe, nhảy xuống, ôm chầm lấy tôi hôn rối rít. Cái hôn sặc sụa mùi thuốc lá.

- Chúc anh đón một Năm Mới tốt lành trên tổ quốc của tôi.

Rồi anh rút ở trong túi áo ra một cái kẹo cao su đưa tôi:

- Đây là quà Năm Mới của tôi!

Rồi đợi tôi vào hẳn trong nhà, anh mới phóng xe đi.

Người Nga như vậy đấy. Nếu đêm đó không gặp anh, tôi không thể hình dung được mình sẽ ra sao?

Còn Tết ta ở nước ngoài thì buồn lắm. Nó lạc lõng và xa lạ. Bởi với người nước ngoài, ngày đó là một ngày bình thường. Không khí dửng dưng một màu nhạt thếch. Nhiều lúc tôi cứ lẩn mẩn tự hỏi, không biết cái gì làm nên Tết nhỉ? Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ như các cụ nói ư? Hình như là chả phải. Ở nước Nga, vào dịp Tết ta, cánh sinh viên cũng tụ tập nhau lại cùng đón Tết. Họ cũng làm cành đào, làm giống y như thật, rồi dưa hành, rồi thịt mỡ, rồi bánh chưng. Rồi tiết canh lòng lợn. Chẳng còn thiếu cái gì trong thời kinh tế thị trường. Người ta còn chuyển được cả lá mùi già sang Mátxcơva để nấu nước thơm rửa mặt trong ngày đầu năm, như ở làng quê ta xưa vào dịp tết nhất. Vậy mà rồi vẫn cứ không ra Tết, không thành Tết. Vì sao vậy? Vì không có được cái không khí của Tết. Đó là cái không khí tất bật, chộn rộn, là mùi hương trầm phảng phất trong không gian, là cái lạnh heo heo, là một ít mưa xuân như khói sương bay phơ phất đâu đó, là chút bâng khuâng xao xuyến trong lòng người. Đó chính là không khí Tết. Hình như chính cái đó mới làm nên Tết. Và cái không khí Tết, cái hồn vía Tết ấy thì người Việt ở nước ngoài, dù có đầy đủ vật chất, tiền bạc nhiều đến đâu cũng không thể tạo ra được.

Tôi viết mấy dòng này chia sẻ nỗi niềm với bạn bè tôi, những người Việt đang ở Nga, ở Mỹ, ở nhiều châu lục khác trên khắp hành tinh này. Họ đón Tết mà hình như vẫn không có Tết…

TRẦN ĐĂNG KHOA