HV114 - Mùa xuân ở chiến trường Buôn Ma Thuột*

Trong những ngày đánh Mỹ, tôi ở lại chiến trường Tây Nguyên, sau khi dự một khóa ba tháng huấn luyện đi B ở Xuân Mai, Hà Sơn Bình. Chúng tôi lại lên đường ra mặt trận theo lịnh của đồng chí Nguyễn Sanh Châu, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Khu ủy Khu 5 mùa xuân Ất Mão rộn ràng chuẩn bị vào chiến dịch mới. Mùa xuân rừng khộp khô lá.

Chiều ấy trời se lạnh, gió rét, hành quân lâu ngày, ăn đói nên càng lạnh thêm. Trong khu rừng nhỏ ven suối, hoa mai đã nở trắng. Thuở nhỏ ở quê tôi chỉ thấy hoàng mai, nay lần đầu được lọt vào rừng bạch mai bạt ngàn giữa chiến trường nên có cảm giác lạ vui. Tôi tìm chặt một cành mai đẹp cắm vào đầu ô tô để gọi là chào xuân Tây Nguyên. Ước gì được chuyển ra Hà Nội cho bạn bè cành bạch mai giữa những ngày nhộn nhịp ra quân này.

Mười tám anh chị em chúng tôi phần lớn từ Hà Nội trở về, lâu nay nằm ở Khu bộ hoặc có đi hoạt động cũng chỉ quanh quanh ở khu đồng bằng đất Quảng, chưa bao giờ phải đi dự chiến dịch xa nên rất phấn chấn đón chờ giờ hành quân. Trong đoàn có ba nữ, hai cô là người thủ đô - cô Huyền và cô Hảo. Huyền bên quân đội vừa chuyển sang phụ trách vô tuyến điện, sử dụng máy PRC.25, còn Hảo là công nhân in, xếp chữ…

Buổi sớm, cành bạch mai cắm trên xe được gió đẩy đưa như những bàn tay nhỏ xíu chào Tây Nguyên giữa trùng điệp cây rừng Trường Sơn. Chúng tôi tưởng đi vài ba hôm, nhưng nào ngờ trong đoàn có người ốm và đồng chí lái xe bị mệt nên đến ngày 3-3-1975 mới đến được “đại bản doanh” - chỗ ở của Bộ chỉ huy Tây Nguyên.

Qua Đài Giải phóng, từng giờ, từng ngày, tin tức các nơi giải phóng dội về, từ mồng 4 đến mồng 8 tháng 3 cắt đứt đường 21. Ngày hôm qua ở Đắk Song, tiểu đoàn 53 bị tiêu diệt, hôm nay Đức Minh giải phóng xong, chiều thì Đức Lập giải phóng hoàn toàn.

Chiến thắng và chiến thắng dồn dập. Tôi phân công các mũi: Phạm Ngọc Châu quay phim thời sự theo một đơn vị vào hướng Đạt lý I, Đạt lý II; Ngô Tạo Kim đem theo máy ghi cho được hình ảnh quân ta tiến về thị xã; Đào Anh Tôn - phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, Đỗ Chí Thạnh - Đài truyền thanh đi vào các buôn làng nổi dậy…

Đêm mồng 9, đứng trên đồi Chi Lăng nhìn xuống trại Mãnh Hổ, nhìn xuống sân bay Hòa Bình và sở chỉ huy của sư đoàn 23 ngụy bị pháo binh quân Giải phóng xé tan tành, lửa vụt cao sáng rực cả bầu trời mặt đất nơi đây.

Anh Nguyễn Sanh Châu, tức Nguyễn Quang Chính, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời khu Trung Trung Bộ, anh Năm Vinh - khu ủy viên cho người đến đón chúng tôi về nhanh Buôn Ma Thuột. Anh Chính cho chúng tôi một ly rượu sâm nhỏ gọi là “thưởng tướng khao quân” bộ phận nhà báo, vì các ngày qua, đài Giải phóng đã đưa tin rất kịp thời, giải phóng cả một vùng trên 30 vạn nhân dân Đắk Lắk. Sáng nay, ta đã đánh chiếm thêm mấy quận lỵ, trong đó có quận lỵ Thuần Mẫn.

Buôn Ma Thuột đã tiến công. Tin ấy loan ra chính thức từ cuộc giao ban làm xôn xao cả khu rừng già bằng lăng, mọi người công kênh nhau tung hô sướng vui quá đỗi.

Dưới rừng cây rậm rạp, tôi phải ngồi đạp máy Ra gô nô cho có điện để đồng chí Đài truyền thanh đánh đi tin vui giải phóng. Trong chiếc lán nhỏ, anh Năm Vinh duyệt lại tin trên và cho phát về bộ phận thường trú Đài phát thanh Giải phóng.

Đêm 9 rạng ngày 10-3-1975, quân và dân Đắk Lắk đã tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, đánh sở chỉ huy sư đoàn 23, chiếm sân bay Hòa Bình, bắn cháy Tổng kho hậu cần Mai Hắc Đế. Nhiều cứ điểm trong phạm vi thị xã lính địch thấy xe tăng quân Giải phóng xuất hiện đã quăng súng bỏ chạy.

Tất cả anh chị em nhà báo trong Đội võ trang tuyên truyền đều tỏa đi các hướng. Tôi là trưởng đoàn phải cùng với Ủy ban quân quản lo việc tiếp thu các nơi vừa giải phóng. 5.000 lá cờ Mặt trận cỡ nhỏ, 400 lá cờ bằng sải tay chúng tôi mang theo đã phân phối đi các nơi, cờ đỏ rợp trời. Nhà nhà đã mở cửa treo cờ, trào nước mắt sướng vui đón quân Giải phóng.

Từ các phố Hoàng Diệu, Phan Bội Châu, các ngõ 5, ngõ 6 từ ấp Một, ấp Tám, nhân dân đổ ra đón chào chính quyền cách mạng. Đại tá Y Blốc Ê Ban, sau 20 năm đi đánh giặc nay trở về thị xã quê hương trong tiếng reo mừng của đồng bào, trong vòng tay thắm thiết nhớ thương của các gia đình cơ sở cũ.

Tôi đến trường trung học Bồ Đề, trung học Tổng hợp, trường Sư phạm, trường Kỹ thuật, trường Quang Trung, trường Nguyễn Du, Lam Sơn đã thấy giáo viên, học sinh tấp nập vui như ngày hội. Đông đảo học sinh các trường trung học cùng bà con dân phố các ấp đi quét dọn đường phố… Tôi được anh Năm Vinh và anh Nguyễn Quang Chính phân công đứng ra giải thích những điều thắc mắc của 300 giáo viên các trường trong tỉnh. Đây là tầng lớp trí thức địa phương cần tranh thủ sự ủng hộ trước tiên để ổn định tình hình.

Các chợ phường 5 thị xã im lìm đóng cửa, bỏ sạp, hôm sau nhộn nhịp đông vui. Ở đường Lý Thường Kiệt, một trong những phố sầm uất của thị xã, các cửa hiệu Thiên Đường, Quang Trung, Chuột Trắng, Tân Tiến, Hương Giang người qua kẻ lại nô nức mua bán hỏi thăm anh chị em từ chiến khu trở về giải phóng thị xã. Trên các nẻo đường Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thái Học, đồng bào các dân tộc Hoa kiều, ngoại kiều sau mấy ngày tạm lánh về các đồn điền cao su, cà phê ngoại vi, sáng nay vui vẻ trở về.

Có một điều vui và phấn chấn, đồng chí Nguyễn Thành, trưởng ban CP.90, đã điện vào cho biết: Trung ương rất khen ngợi bài vở đánh kịp thời, gây phấn khởi và tin tưởng ở quần chúng nhân dân. Những bài vở điện ra, CP.90 trình lên đồng chí trưởng ban tuyên truyền chiến dịch và được đọc bằng dây nói cho anh Sáu Lê Đức Thọ, duyệt lại kịp thời phát đi nhanh chóng trong nước và trên thế giới đặng tranh thủ bạn bè năm châu.

Ngày nào nơi trụ sở của Ban quân quản cũng vui, đồng bào các nơi đưa bánh mứt, kẹo, gạo nếp, đường về cho các nhà báo giải phóng ăn mừng chiến thắng.

Qua Đài Giải phóng, trật tự an ninh đã thật sự trở lại trong thị xã mới giải phóng. Đây là thị xã thứ ba được giải phóng sau Quảng Trị 1972, sau Phước Long 1975, nhưng Quảng Trị chỉ còn đống gạch tro tàn, Phước Long là một tỉnh lỵ xa vắng ít mở mang, còn đây là thủ phủ của vùng Tây Nguyên gồm sáu tỉnh cao nguyên miền Trung sầm uất. Thị xã Buôn Ma Thuột vẫn còn nguyên vẹn, trừ các căn cứ quân sự bị pháo binh ta bắn rất chính xác.

Chúng tôi đang ở giữa thị xã Tây Nguyên tại nhà nghỉ của vua bù nhìn Bảo Đại, một lâu đài đẹp đẽ kiến trúc kiểu nhà sàn Tây Nguyên. Một em nhỏ ở trường tiểu học A-lê-a, em Y Đơn, đem đến cho chúng tôi một xâu chim mía rồi nắm tay chúng tôi và nói bằng tiếng Ê Đê: “Sao chú hiền lành thế này?”, “Thế sao bọn trên đồi nói các chú là ăn thịt trẻ con?”… Các em thiếu nhi vui lắm, suốt ngày quây quần bên các anh Giải phóng, đòi dạy bài hát, các em đưa đường xách túi cho đồng bào đi tản cư về buôn làng, phố cũ. Các chị, các mẹ thổi cơm, khâu vá, chăm sóc anh em thương binh. Cả thị xã người nào việc nấy, đang dần ổn định cuộc sống…

Sau đó tôi được lệnh điều vào Nam Bộ, từ ấy đến nay mới đó mà đã hơn 42 năm. Hôm nay tôi bỗng dưng lại nhớ đến các bạn nhà báo cùng trong Đoàn võ trang tuyên truyền đã góp sức trẻ của mình cho những ngày chiến thắng lịch sử năm xưa. Tôi nhớ Thắng Lộc, Triệu Xuân, Ngọc Văn, nhớ cô Sửu, cô Kim Anh (báo Nhân dân), cô Hoa, cô Lệ Thu là đại biểu Quốc hội khóa 9 và những người đồng chí, những người em Hà Nội đồng hành trên đường Trường Sơn vào Buôn Ma Thuột. Cô Bích Hảo giờ đây thế nào? Hồi ấy chúng tôi cùng ngồi trên ca bin, Hảo người tầm thước, có đôi mắt đẹp đen như nhung, ngời sáng. Những đêm tối trời, bạn Duy lái xe không dám bật đèn sợ lộ đã nói vui là có đôi mắt Hảo soi đường.

Giờ đây Buôn Ma Thuột, thành phố cao nguyên đã bừng sáng. Những vườn cà phê ngày xuân hoa nở trắng ngần. Những đồn điền cây công nghiệp và ăn trái thành nông trường quốc doanh, nông trường liên doanh với nước ngoài. Cả một vùng cây trái xanh tươi nào chè, nào cao su, nào chuối, mít đang vào vụ nhộn nhịp.

Tôi vẫn nhớ lại các bà mẹ Ê Đê gùi gạo ra tiếp tế cho chúng tôi, giấu trong những hốc đá xa xa. Tôi vẫn nhớ đồng chí Lê Hữu Kiểm, chỉ huy cũ của đại đội 23 trung đoàn địa phương thời chống Pháp của tôi, nay là Anh hùng quân đội, đã nghỉ vì sức yếu.

Các cô gái Mơ Nông áo quần rực sáng để lộ những thân hình tròn trịa mà nay tóc đã điểm sương. Nhiều bạn bè là nhà báo, phóng viên, người quay phim của chúng tôi như Đỗ Ba, anh Hữu, Y Khôn, Y Móc, Y Bơ Lăm đã hy sinh từ kháng chiến. Nhiều đồng chí của tôi anh hùng trên các trận địa, có người chết vì ốm đau, vì đói, vì nước lũ, vì hổ báo... Mùa xuân về, tôi nhớ cánh rừng kơ nia Tây Nguyên, anh chị em chúng tôi quây quần bên chiếc radio nghe Đài phát thanh Giải phóng ở Hà Nội đọc bài do mình viết, mình điện ra.

Chúng tôi vẫn nhớ thương nhiều gia đình đã che chở đùm bọc các nhà báo. Như mẹ Ê Đê tóc trắng bông hiên ngang trước quân thù, thà chết chứ không chỉ hầm của cán bộ Giải phóng. Sau 42 năm tròn tôi trở lại thăm thì mẹ không còn nữa. Rừng kơ nia ở buôn Bơ Lang giờ đã 42 mùa thay lá, cây đại thụ trước vẫn hằn sâu chữ khắc tên tôi cách gốc cây một sải tay nay không tìm ra. Kỷ niệm xưa còn đó, mà mẹ không còn. Nhà mồ của mẹ nằm trên một ngọn đồi cao đầy hoa pơ lang nở sáng. Tôi đứng yên ngả mũ chào mẹ…

Bến Nghé, xuân 2017

 

_____

* Trích hồi ký Như rừng cây kơ nia sắp xuất bản.

** Nguyên Trưởng đoàn võ trang tuyên truyền Liên khu 5 tại Buôn Ma Thuột.

ĐOÀN MINH TUẤN**