Hoàng hôn lụi tàn sau giải Lão Sơn. Chân trời phía Bắc xám xỉn, mây mù dâng lên. Cơ man nào là giun dế từ bốn phương tám hướng rừng nơi biên viễn hoang vắng tấu lên khúc nhạc rền rĩ thảm sầu. Giờ khắc đất trời giao hòa ấy như gọi những chú trăn gấm hoa vàng sinh trú trong các hang hốc bò ra bờ suối làm việc sinh tồn muôn thuở - tìm mồi, tìm bạn. Loài thú quý hiếm hoang dã đó, người Tày, người Mông, người Kinh... ở vùng Vị Xuyên chập chùng núi non này truyền nhau rằng nó là cháu, chắt, là “hậu duệ” của tổ tiên loài trăn gấm hoa vàng trong truyện dã sử. Các cụ già ở bản Nà Cáy, Làng Pênh... thường kể cho con cháu nghe. Dù chuyện có pha màu huyền thoại nhưng các cụ đều khẳng định đó là chuyện của các bậc hùng tài đại lược xa xưa truyền lại.
Chuyện rằng vào thời Lê - Trịnh cách nay hơn 300 năm, nơi đèo ải Vị Xuyên heo hút này đã có mốc giới bằng đá phân chia rạch ròi cương thổ hai nước. Theo sách Biên giới lịch sử tư liệu Việt - Hoa và sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, năm 1728 vua Mãn Thanh đã phải trả lại 80 dặm dất cho nhà Lê và lập mốc giới hai bên dòng sông Đỗ Chú. Trên bia đá mốc giới đặt tại bờ Nam sông ghi: “...Mốc giới Vị Xuyên, trấn Tuyên Quang, nước An Nam lấy sông Đỗ Chú làm căn cứ. Ngày 6 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6 [1728]. Chúng tôi là Nguyễn Huy Nhuận, Tả thị lang Bộ binh và Nguyễn Công Thái, Tế tửu Quốc Tử Giám được Triều đình ủy sai vâng theo chỉ dụ lập bia mốc giới này…”. Trên bia đá mốc giới tại bờ Bắc sông ghi: “...Khai dương ở xa tận một góc trời, tiếp giáp đất Giao Chỉ..., bọn Sĩ, Côn chúng tôi cùng bọn Nhuận, Thái quan Thái úy nước Giao Chỉ đặt mốc giới này bên bờ sông Đỗ Chú. Từ đây biên cương bền vững lâu dài, ức muôn năm không bao giờ mai một... Ngày 7 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6 -1728...”.
Ấy vậy mà các quan tham Mãn Thanh luôn tìm mọi mánh khóe tạo cột mốc giả dời đến bên một dòng suối nhỏ để lấn đất Vị Xuyên. Có lần nhà Thanh sai hai đại quan mũ cao áo dài kéo lũ lính tráng gươm giáo sáng lòe sang đất ta. Họ hung hăng đòi ta phải trả đất cho họ, phải dời mốc giới lùi về phía đất ta 40 dặm Tàu (bằng 20km). Chúa Trịnh Cương nước ta liền sai hai đại quan đã từng “hội khám” đặt mốc giới năm trước lên nghênh tiếp. Người dân các bản vùng biên nước ta mở lòng thân thiện dựng nhà bên suối, lo việc ăn ở, lo cả việc hầu hát, hầu múa, hầu xôi ngũ sắc, rượu ngon Tùng Bá, thịt nai hun khói để các quan bàn thảo. Lúc đại quan nhà Thanh đang vạch đất chỉ đồi tranh biện phun ra những lời kiêu láo thì bỗng có hai chú trăn gấm hoa vàng bò từ phía hang đá ra bờ suối. Hai chú trăn dừng lại nghiêng đầu nhìn vào lán mới dựng, miệng trăn phát ra tiếng phì phì, khè khè... Vì từ lán tỏa ra mùi tanh tưởi của huyết, của thịt lợn, thịt trâu vừa mổ. Cái lưỡi chẻ thành hai nhánh của hai chú trăn hệt như những mũi mác nhọn thụt thò ra vẻ thèm thuồng... Hai đại quan nhà Thanh nhác thấy mặt mày tái mét, quẳng áo mũ chực bỏ chạy. Hai vị đại quan nước ta vội nắm tay giữ họ lại, nói: “An tọa, An tọa. Xin các đại quan an tọa. Con thú đi tìm mồi thôi mà. Ở nơi cương thổ nước Nam chúng tôi, con thú cũng như con người muốn nơi mình sinh trú được yên bình. Nó không ác với ai nếu họ không có dã tâm ám muội làm hại nó...”.
***
Vùng cương thổ đất Vị Xuyên từ xa xưa từng chứng kiến biết bao phen tao loạn. Còn từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 họ đã xua 60 vạn lính sang tàn phá 6 tỉnh vùng biên giới nước ta. Theo sử sách Trung Hoa để lại, từ thời nhà Ân (năm 1218 trước Công nguyên) đến nay, giặc phương Bắc đã 14 lần xâm lăng nước Việt. Lần thứ 14 này giặc tràn sang ào ạt nhất. Thời Nguyên - Mông, giặc tràn sang nước ta nhiều nhất cũng chỉ có đến 50 vạn quân. Thế mà riêng vùng đất Vị Xuyên - rộng hơn 10km2 - lần này đã có gần 14 sư đoàn của Quân đoàn 40 thuộc Quân khu Côn Minh tràn sang như một trận bão!
Chúng định tiến về thị xã Hà Giang, cắt đứt vùng đất Đồng Văn, Quản Bạ… phía trên và thọc sâu vào nội địa nước ta. Các sư đoàn 312, 316, 313, 356... của quân đội ta đã lên Vị Xuyên chặn đứng, đẩy lùi lũ giặc. Các chiến sĩ ta một tấc đất không lùi. Sống bám đá núi Vị Xuyên, chết làm đá đắp cao đường biên Tổ quốc. Trên đất Vị Xuyên đã diễn ra những trận tử chiến bi hùng. Hơn 4.000 chiến sĩ đã hy sinh, hiện còn 2.000 người chưa tìm thấy hài cốt. Có ngày giặc dội hơn 30.000 quả đại pháo, 10.000 quả đạn cối xuống các cao điểm 1509, đồi Đài, núi Đất, hang Dơi, đồi Không Tên, hang Mán, làng Lò... nơi chiến sĩ ta chốt giữ. Nhiều quả đồi đã bị bạt thấp đến 7-8m. Cả vùng núi non ngút ngàn Vị Xuyên thành một bãi cháy hoang tàn. Cây cối thành than đen. Nhiều mỏm núi đá trở thành “lò vôi thế kỷ”. Một loạt đạn nổ, một ngọn gió lướt qua, bột vôi trắng xóa bay lên mù mịt đất trời. Nước suối Thanh Thủy đỏ ngầu như máu. Vùng đất Vị Xuyên ngày không còn tiếng chim, đêm không còn tiếng thú, không còn cả tiếng giun dế, côn trùng... Duy chỉ còn những chú trăn gấm hoa vàng tội nghiệp sống sót, chui vào ẩn náu trong các hang sâu. Đến khuya hoặc các buổi chiều yên tiếng súng, chúng mới bò ra tìm mồi, tìm bạn.
... Ở cửa Hang Dơi, những người lính trẻ như Trịnh Huyến, Lê Hồng, Hữu Quân, Lê Văn Phương... nhìn chú trăn gấm hoa vàng đói, cái lưỡi thò thụt đánh hơi tìm mồi mà thương hại. Các anh ném cho nó nắm bột mì vo tròn luộc chín, hoặc lát cơm chấm ruốc thịt đang ăn. Quen dần rồi trăn trở nên “thân thiện”. Mỗi lần ngửi thấy mùi ruốc thịt, mùi lương khô là chú trăn lại từ trong hang đá bò ra chờ các anh cho ăn. Lúc vắng người, trăn bò quanh bếp nhặt hạt cơm rơi, mẩu thức ăn thừa. Các anh đặt chậu nước ở cửa hang cho trăn uống. Nhiều đêm chú trăn bò vào khoanh tròn trong thùng đựng nước, trong chảo nấu cơm... ngủ ngon lành...
Qua sự cảm thụ tinh tế từ huyền bí và cả linh khiếu của người lính nơi trận mạc, Trịnh Huyến, Quân, Phương... đều có cảm nhận rằng sau những ngày lửa cháy, tiếng nổ rung núi chuyển đồi, con trăn như đã nhận thấy sự khủng khiếp đang diễn ra. Rừng cây, khe suối và cả không khí nữa cũng luôn phừng phừng, hun nóng. Nó chui vào hang sâu ẩn náu, còn đồng loại nó tản đâu hết rồi. Có những con tan xác hất lên bên bờ suối. Rồi nó thấy một loài sinh vật lạ lùng xuất hiện hằng ngày bên nó. Bằng những tín hiệu mà tổ tiên muôn đời của nó mách bảo, con trăn gấm hoa vàng như đã nhận ra rằng loài sinh vật lạ đó không làm hại nó, không xua đuổi nó mà còn cho nó ăn, cho nó chỗ dung thân, nhìn nó với ánh mắt thân thiện rồi cùng trú trong hang núi với nó.
Trịnh Huyến, người lính quê xứ Thanh, nói với Quân và Phương rằng: “Các cụ ta từ xưa đã truyền lại rồi. Thiện sẽ thắng ác mà, nhân từ sẽ thắng cường bạo mà. Sống có tình thương thì thuồng luồng sẽ thành giun đất mà. Ta đã thu phục được con thú hoang dã này rồi đấy các cậu ạ!”.
Một buổi chiều muộn, Phương nhìn thấy không phải một mà là hai chú trăn vàng từ bờ suối bò vào bên bếp lửa ở cửa hang. Chúng gạt tro than tìm những mẩu sắn nướng, đoạn xương gà. “Anh em ơi, trăn vàng rủ bạn về đây này!” - Phương gọi to rồi anh bẻ đôi nắm bột mì luộc đang ăn chấm ruốc thịt ném về phía hai chú trăn. Con trăn đã từng sống ở hang Dơi ngoảnh cổ nhìn Phương rồi nhìn nắm bột mì, nó ngúc ngắc đầu như biểu thị sự... “cảm ơn”. “Nhẹ thôi, nhẹ thôi Phương ơi, nó rủ ‘bạn tình’ về đấy. Đừng làm nó sợ” - cả tiểu đội nhìn ra, nhắc Phương. “Quý quá đấy, trong lửa đạn thế này mà loài vật cũng còn biết tìm đến với nhau. Biết đâu nó là đôi bạn tình đấy. Ta bao dung với chúng đi. Ta xem chúng như ‘bạn’ cùng bám trụ hang Dơi giữ đất Vị Xuyên này nhé” - Quân nói thêm vào. Những người lính chốt giữ điểm tựa nhìn nhau. Họ không nói ra lời nhưng ánh mắt họ đều tỏ chung ý nghĩ: “Ôi đến bao giờ, đến bao giờ con người, con thú ở vùng đất Vị Xuyên này được sống bình yên như bà con người Mông, người Tày ở đây dặn dò nhau: ‘Chim đang làm tổ ấp trứng trên cây, xin đừng đốn hạ. Cá đang đưa con bơi tìm mồi dưới suối, xin chớ cạn dòng’...”. Vừa lúc ấy tổ thông tin từ phía sau chuyển sách báo, thư tín lên điểm tựa đồi Đài, đồi Hang Cáo... dừng lại, các anh nói: “Mùa hội trăn chúng đi tìm bạn tình đấy các cậu ạ. Các cụ già ở bản Nà Cáy, Làng Pênh đã kể chuyện ấy rồi. Vào tháng giêng, hai hằng năm là mùa ‘hội trăn’ đấy”. Các cụ kể rằng (các tài liệu nghiên cứu về loài trăn cũng nói thế) loài trăn gấm hoa vàng có tập tính sống rất “lãng tử, hào hoa”. Hằng năm vào độ đầu xuân ngàn cây rừng đơm lộc non lá mới, dịp thanh minh nắng vàng hoa nở, trăn gấm ở đất Vị Xuyên này lại vào “mùa hội”. Những ngày ấy từng nhóm chừng năm, bảy “chàng” trăn cụm nhau tìm một “nàng” non tơ. Rồi chúng rủ nhau bò ra bờ suối Thanh Thủy quần tụ trên một bãi đất bằng. Các chàng trăn vào cuộc đấu sức với nhau, vờn nhau, quấn riết nhau. Còn nàng trăn nằm im chiêm ngưỡng. Tan hội, chỉ có một chàng trăn thắng cuộc. Chàng ta ung dung bò đến nàng với tư thế hiên ngang hãnh diện. Chàng đấu đầu, đấu lưỡi “âu yếm” nàng rồi quấn lấy nàng tình tự, ân ái. Những chàng trăn thua cuộc biết thân phận bò lùi ra xa cụm lại với nhau.
***
Các tài liệu khoa học và Bách khoa toàn thư mở đã nói rõ về loài trăn gấm. Nó là loài bò sát máu lạnh, da dày, cấu tạo địa sừng vảy như rắn, như cá sấu, kỳ đà… Loài trăn không có nọc độc như rắn. Nó là loài bò sát “đặc sinh” chỉ có một lỗ huyệt. Nơi bài tiết cũng là nơi sinh sản. Nó được sự dìu dắt của bản năng nòi giống hoang dã săn bắt trong thế giới nguyên thủy xa xưa nên rất tinh khôn và mãnh liệt. Nó nhận biết mọi vật xung quanh qua cái lưỡi chẻ thành hai nhánh để ngửi được và nghe được (trăn không có cơ quan thính giác và khứu giác riêng). Bộ xương sống của nó gồm 400 đốt như chiếc lò xo thép bị nén bung ra sức mạnh quấn riết con mồi nhiều vòng, dù đó là nai, lợn, gấu, ngựa… cũng phải nát xương, nhũn thịt, rồi nó nuốt chửng. Điều rất đặc biệt của loài trăn là bộ hàm của chúng không có khớp hàm mà chỉ có dây chằng với độ đàn hồi rất lớn dính vào nhau. Nên trăn mở miệng rộng đến bao nhiêu là do yêu cầu nuốt con mồi lớn hay bé. Và, khi trăn đã nuốt mồi rồi thì các bộ phận trong cơ thể nó phải tăng hoạt động lên mấy chục lần để tiêu hóa, hút cạn kiệt chất canxi trong xương con mồi để bồi bổ thêm dinh dưỡng cho nó. Nên loài động vật “đặc sinh” này kéo dài tuổi thọ được tới gần 40 năm.
Sau mùa “hội trăn” thì các “nàng trăn” mang thai, gần 3 tháng thì sinh nở, mỗi lứa sinh 60-80 trứng. Trăn mẹ cuộn tròn thành cái tổ kín đáo, ấm áp để ấp trứng. Gần 3 tháng sau thì đàn con chào đời. Con trăn non có thể dài đến 60cm, nặng đến 20kg. Sau hơn 10 ngày thì đàn trăn non “thay áo” để thân hình nở nang rồi tỏa ra bốn hướng non ngàn đón nhận cuộc sống tự lập. Chỉ ít ngày sau đó con trăn non đã có thể bắt sống và nuốt gọn con mồi dài bằng một phần tư chiều dài và khối lượng bằng nửa cơ thể nó.
***
Cách điểm tựa Hang Dơi và dòng suối Thanh Thủy không xa là bản Nà Cáy, làng Pênh. Ở đó có Thư viện mặt trận đặt trong một hang đá lớn. Thư viện có hơn 4.000 cuốn sách và một số báo... xếp ngay ngắn trên các hốc đá, các giá làm bằng tre. Ở cửa thư viện luôn có hàng chục ba lô, túi đựng đầy sách báo để chuyển lên đến chiến hào hơn 40 điểm tựa phía trước. Thư viện mặt trận Vị Xuyên có hai “thủ thư” là Hùng và Được cùng với… hai chú trăn gấm hoa vàng trông coi. Theo tập tính sinh tồn, ban ngày hai chú trăn chui vào hang sâu ngủ. Đêm, trăn bò ra tung hoành sục sạo trong từng hốc đá, chạn sách. Con chuột rúc rích, con thạch sùng chép miệng, bầy mối, lũ côn trùng và cả những con rắn vào ẩn trú, hai chú trăn gấm nhặt bằng hết. Trăn còn chộp được cả những con dơi sà xuống đớp muỗi. Cứ mỗi lần nghe tín hiệu “khẹc khẹc, phì phì” là các thủ thư biết được “hai chú bảo vệ” đang diệt “kẻ phá hoại” trong các giá sách.
Hai chú trăn quấn quýt với hai người lính thủ thư. Đến bữa các anh “bồi dưỡng” nó, miếng lương khô, củ sắn nướng, nắm ruốc thịt hoặc khúc xương gà. Có ngày nắng ấm, mặt trận yên tiếng súng, hai chú trăn gấm hoa vàng rủ nhau ra nằm phơi nắng trên các tảng đá. Chúng quấn vào tay các anh. Chúng co kéo như thử sức lực với hai người lính thủ thư. Hai anh đã kể cho đồng đội nghe về câu chuyện con trăn gấm “trừng trị” tên giặc ở vùng núi Quảng Nam. Chuyện đó xảy ra vào năm 1967 thời đánh Mỹ. Năm ấy Lữ đoàn 196 Thủy quân lục chiến Mỹ vừa vây ráp, tàn sát bà con ta ở miền duyên hải Quảng Nam kéo về đóng ở chân núi Già. Một tên lính Mỹ xuống suối lấy nước đụng con trăn gấm phục sẵn trên cành cây. Con trăn lao xuống quấn riết tên lính nhiều vòng rồi nuốt chửng. Khi gần nửa lữ đoàn lính Mỹ đi tìm thì đã thấy con trăn gấm nằm thảnh thơi ngâm giữa dòng suối mát. Trong cái bụng to kềnh càng của nó, tên giặc đã đền tội!
Người lính thủ thư nói rằng truyền thông đã nhiều lần đưa chuyện đó do ông Mai Xuân Hưởng, nguyên Phó bí thư Huyện ủy Quế Sơn - Quảng Nam chứng kiến, kể lại. Ông cũng rất lạ lùng, rừng Quảng Nam lắm trăn, nhiều thú, bộ đội và bà con ta gặp nó luôn nhưng không có ai bị trăn làm hại. Nó chỉ giết tên lính Mỹ vừa đi càn gây tội ác. Hóa ra con thú hoang dã quý hiếm của rừng nước ta giúp ta đánh giặc!
***
Một đêm trăng non cuối tháng 10-1987, những người lính Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 chốt giữ vùng Điểm tựa Hang Dơi đã viết lên đá núi những dòng chữ bằng máu của đồng đội, của Phương (Lê Văn Phương, người ngõ Thổ Quan - phường Khâm Thiên - Hà Nội). Đêm đó Phương xuống suối Thanh Thủy lấy nước và đón tổ thông tin mang thư, mang sách báo lên thì đúng lúc giặc bắn pháo sang. Đạn nổ, lửa khói trùm kín cửa hang. Suối Thanh Thủy dựng lên hàng trăm cột nước. Đồng đội đưa Phương vào hang Dơi, đặt anh nằm trên tảng đá. Nơi đó những buổi chiều Phương và đồng đội thường ngồi ăn lương khô, nắm mì luộc. Các anh bẻ nắm mì chấm ruốc thịt ném cho chú trăn gấm hoa vàng ngước cổ chờ. Nơi đó những lúc mặt trận yên tiếng súng, Phương ngồi đọc sách, viết thư cho Yến, người cùng phố, bạn học cùng trường. Phương và Yến đã hẹn ước với nhau, hai gia đình đã ngỏ lời, chạm ngõ chờ ngày Phương về làm lễ cưới. Quân, Huyến... cầm tấm áo thấm đẫm máu của Phương, của đồng đội viết lên tảng đá nơi các anh nằm:
“Hang Dơi, Thanh Thủy vùng biên máu
Đồng đội nằm đây xin chớ quên...”
Tháng 7-2017