HV117 - ĐÀO DUY ANH nghĩ về sử, địa, văn, triết

Sau khi tiếp xúc với văn minh Tây phương một thời gian, người Việt Nam bắt đầu chuyển từ cái học để làm người qua cái học tìm tòi chuyện nọ chuyện kia. Nền học mới rất nhanh chóng nảy sinh những tài năng xuất chúng, trong số đó có Đào Duy Anh.

Đào Duy Anh “học” rất rộng, bao quát sử, địa, văn hóa, triết lý, với quan tâm lớn nhất dành cho lịch sử Việt Nam, đặc biệt là cổ sử. Ông là nhà nghiên cứu khoa học xã hội với tầm đề tài rộng nhất trong thế hệ mình, và cả về sau, vì càng về sau cái học càng trở nên chuyên môn hơn.

Sau đây là một trích tuyển những phát biểu của Đào Duy Anh (các tiểu đề do chúng tôi tạm đặt).

“Cái nghiệp của tôi”

“Lịch sử cổ đại Việt Nam (...) không có thể quan niệm nó trong khuôn khổ của lịch sử cổ đại Tây phương (Hy Lạp và La Mã) (...) mỗi dân tộc có con đường phát triển cụ thể tùy theo hoàn cảnh địa lý và hoàn cảnh lịch sử của mình, cho nên không có thể lấy cách phát triển của dân tộc này (...) mà gán cho một dân tộc khác (...). Vấn đề nguồn gốc (...) học giả Pháp (...) thường đứng trên lập trường của kẻ xâm lược mà tự nhiên hay cố ý thuyết minh xuyên tạc bôi nhọ tổ tiên ta (...). Tôi lấy làm sung sướng được là người đầu tiên giảng về cổ sử Việt Nam (...) truyền cho sinh viên (...) lòng tự hào có cơ sở khoa học đối với nguồn gốc vẻ vang của dân tộc, cái nguồn gốc mà xưa nay người ta chỉ tự hào một cách thần bí với truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên” (ĐDA-1). Khi đối tượng nghiên cứu quá phức tạp, phải sau nhiều thế hệ học giả, lớp sau đứng trên vai lớp trước, ta mới thấy được sự thực. Bao giờ thấy chắc chắn quá khứ rất xa xôi của dân tộc rồi, xin nhớ trông lại quá khứ gần mà biết ơn những đôi vai vững chãi đầu tiên trong đó có Đào Duy Anh.

Vẫn một nước thôi

“Trong suốt gần 200 năm họ Nguyễn cát cứ ở miền Nam, nhân dân hai miền Nam Bắc vẫn không xem nhau là người nước khác (...). Ðể phân biệt người ta chỉ gọi nhau là Ðường Trong và Ðường Ngoài (...). Họ Nguyễn, mặc dầu cát cứ, cũng vẫn theo niên hiệu nhà Lê” (ĐDA-2). Trong 20 năm tồn tại của “Việt Nam Cộng hòa”, lòng dân Nam - Bắc cũng y như thế. Nhưng Ngô Đình Diệm khác các chúa Nguyễn vì đã gọi miền Nam là “nước”. Cái nước giả mà ngoại bang dựng lên ấy đã tan biến rất nhanh. Đó là điều hết sức may mắn cho Tổ quốc, vì nếu nó sống lâu, đến một lúc nào đó e rằng nhân dân hai miền sẽ bắt đầu thấy nhau là người nước khác!

Đơn vị địa lý hoàn chỉnh

“Lãnh thổ nước ta (...) hai miền đối nhau, miền đồng bằng chạy dài theo dọc biển do những sông lớn phát nguyên từ dải núi xương sống bồi thành, và miền núi cao chạy dài theo triền phía đông của dải núi xương sống và liên tiếp với miền đồng bằng do một dải trung du gồm những đồi và đất cao chân núi (...) như thế là (...) rất thuận lợi cho việc thành lập một khu vực kinh tế hoàn chỉnh (...) cũng là (...) thuận lợi cho sự thống nhất chính trị (...). Lãnh thổ ấy (...) bị chia cắt thành nhiều khu vực cách nhau bởi những nhánh ngang của dải núi xương sống nói trên, nhưng mỗi khu vực tự nó cũng là (...) một khu vực kinh tế tương đối hoàn chỉnh (...) tuy cách nhau bởi những nhánh núi ngang, nhưng lại thông với nhau dễ dàng bằng những đèo thấp và nhất là bằng đường biển dọc theo bờ, cho nên (...) thuận lợi cho sự ổn định tương đối sớm của lãnh thổ (...) và cho sự phát triển đều đặn theo từng giai đoạn” (ĐDA-3). Những chiếc xương sườn đâm ra tận Biển Ðông của bộ xương Trường Sơn không cản trở thống nhất kinh tế và chính trị, mà giúp tạo nên nhiều sắc thái địa phương trong văn hóa Việt Nam ở miền xuôi. Lúc đầu, văn hóa ta đa dạng chỉ do chênh lệch cao độ. Khi Tổ quốc mở xa về phía nam, nó trở nên đa dạng cả do chênh lệch vĩ độ. Đặc biệt, ở miền đồng bằng, một phần do những đèo “ngang”, cùng một dân tộc Kinh mà văn hóa tỉnh này phân biệt với văn hóa tỉnh khác khá rõ. Nhưng tuy rất đa dạng, văn hóa Việt Nam bao giờ cũng thống nhất.

Truyền thống trí thức yêu nước

“Những thành phần Nho học ưu tú nhất ở đương thời đều đứng dậy chống giặc (...). Để đào tạo tay sai, thực dân Pháp bắt đầu cải cách giáo dục. Trí thức mới phần lớn là con em của các quan lại đầu hàng, của các thông ngôn ký lục từng giúp việc cho chính quyền thực dân trong những bước đầu, của lớp tư sản và tiểu tư sản kiếm ăn và làm giàu trong công cuộc khai thác kinh tế của chính quyền và của tư bản thực dân (...). Người ta (có thể tưởng) lớp trí thức mới đã bị nô dịch hoàn toàn. Nhưng không phải thế (...). Có những người (…) theo dấu cha anh, đứng lên đỡ lấy cái gánh nặng non sông (...). Trong lớp kế thừa này [có] Nguyễn Sinh Cung (…) người lãnh tụ thiên tài (...). Đại đa số những người trí thức mới khác [tuy] không dám dầm mình vào cuộc đấu tranh, nhưng trong lương tâm nhiều người, cái đại nghĩa dân tộc vẫn còn. Bởi vậy cho nên vào dịp Tổng khởi nghĩa và nhất là từ Cách mệnh tháng Tám đến Toàn quốc kháng chiến (...) khi thấy đảng cộng sản dựng lại được nền độc lập và kiên quyết kháng chiến để bảo vệ độc lập, thì cái lửa yêu nước mấy lâu vẫn âm ỉ ở trong lương tâm họ vụt cháy lên khiến họ đi theo cách mệnh và kháng chiến (...). Khắp nước [và ở hải ngoại], bao nhiêu người trí thức không kể xiết đã không tiếc gì đời sống vật chất thừa thãi mà ra sống vất vả, nguy hiểm ở chiến khu, bưng biền, đáp tiếng gọi thiêng liêng của dân tộc (...). Phải nhìn người trí thức Việt Nam ở trong điều kiện lịch sử của dân tộc Việt Nam là một dân tộc đã phải đấu tranh chống ngoại xâm rất nhiều lần mới tồn tại được đến ngày nay” (ĐDA-1). Làm sao cho cái “âm ỉ” chịu “vụt cháy lên”, là công việc của những người cách mệnh tiên phong. Không phải chỉ đi tuyên truyền suông mà được. Phải “tiên tri tiên giác”, ráo riết chuẩn bị, và khi thời cơ đến, phải chụp ngay lấy mà tạo khí thế cho thật to, thì mới có lửa ngọn bùng bùng. Cách mệnh tháng Tám không phải một sự tình cờ, mà là kết quả của nỗ lực hết sức kiên trì bất chấp hoàn cảnh lắm lúc cực kỳ khó khăn của một nhóm người đã hy sinh tất cả cho đại nghĩa dân tộc, dưới sự chỉ huy của một “lãnh tụ thiên tài”.

Không phải bất dịch

“Đừng nên xem những tính chất ấy (...) là bất di bất dịch” (ĐDA-3). Đào Duy Anh đang nói về cái mà bây giờ ta quen gọi là “bản sắc văn hóa”. Vì nó có thể đổi, nên “bản” đây là trong một khung thời gian nào đó mà thôi. Nhưng trong văn hóa Việt Nam, có cái tính chất này hình như bất di bất dịch. Đó là tính “mềm như nước”.

Thuần hậu và bình đẳng

“Đặc tính thứ nhất của văn hóa nông nghiệp ấy [tức văn hóa Việt Nam] là xã hội lấy gia tộc làm cơ sở (...). Gia tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc (...) về địa vị của con cái và địa vị của đàn bà con gái (...) rất là tàn nhẫn (...) pháp luật và phong tục nước ta (...) thể tất nhân tình hơn (...). Phong tục nước ta thuần hậu, không như ở Tây phương, từ trong gia tộc ra ngoài xã hội việc gì cũng lấy pháp trị làm chủ, là thói khắc bạc phi nhân tình. Văn hóa nước ta lấy cảm tình làm bản vị, đó là (...) đặc tính thứ hai vậy” (ĐDA-3). Thuần hậu khác Tây, bình đẳng hơn Tàu, là tổ tiên ta đó.

Cảm nhiều và hay trực giác

“[Người Việt] giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý” (ĐDA-3). “Trí nghệ thuật” nghe lạ. Nghệ thuật do tâm hồn, do tim, do lòng, chứ đâu phải do óc, mà “trí”? Thực ra, dĩ nhiên, tim với lòng không nghĩ cũng chẳng cảm gì hết, tất cả do óc thôi. Cùng khối chất xám đó, khi cảm xúc là tâm hồn, khi nghĩ ngợi là trí óc. “Giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học”, nghĩa là óc hay cảm hơn nghĩ. Khi nghĩ, người Việt Nam thường trực giác hơn là suy luận. Không phải cảm thua nghĩ, trực giác thua suy luận. Hơn hay thua là tùy ứng dụng vào cái việc gì. Làm nghệ thuật mà nghĩ thì không phải là làm nghệ thuật! Trầm tư mặc tưởng về ý nghĩa của thực tại mà suy luận thì nhận thức không thể cao thâm. Làm khoa học thì chớ có cảm chút nào, mà phải toàn nghĩ, lấy suy luận làm chính, nhưng cũng cần vận dụng ít nhiều trực giác, có khi chính trực giác làm nên bước đột phá!

Giàu vần hơn hẳn tiếng Tàu

“Vì hệ thống âm của tiếng Trung Quốc vốn nghèo hơn hệ thống âm của tiếng Việt Nam cho nên so với tiếng Việt Nam thì hệ thống âm Hán Việt cũng nghèo hơn (...). Trong số 150 vần của tiếng Việt, chỉ có 75 vần có trong tiếng Hán Việt thôi. Trong số ấy các vần o, oe, ăn, im lại là những vần rất hiếm trong tiếng Hán Việt” (ĐDA-4). Tiếng Hán Việt cơ bản là tiếng Tàu đời Ðường bị Việt hóa đi. Ðọc Ðào Duy Anh mới biết khi Việt hóa tiếng Tàu, các cụ ta xưa kia chỉ mới vận dụng có khoảng một nửa số vần có trong tiếng Việt. Nước ta thì bé, nước Tàu thì to, thế mà tiếng ta giàu vần hơn hẳn tiếng Tàu!

Thiền tông

“Phật ở trong lòng, trau dồi tâm tính tức là nên Phật (...). Người tu hành có thể do giác ngộ thình lình mà thành Phật (...). Ðó là hai điều chủ yếu trong giáo lý của Thiền tông, tức là tâm ấn và đốn ngộ, khác với giáo lý của các tôn phái khác cho rằng người khéo tu hành thì khiến nhẹ bớt được nghiệp báo cho kiếp sau rồi trải qua bao nhiêu kiếp luân hồi mới dần dần thành Phật được” (ĐDA-4). Tu thiền đòi trí tuệ. Để mong đốn ngộ, người tu phải hết sức dĩnh ngộ! Nhưng nay thiền được thực hành chủ yếu như một phương pháp vật lý trị liệu nhằm chữa bệnh căng. Sống căng quá, thiền để giải căng, rồi lại sống căng, lại thiền, cứ thế. Chân như ôi!

Ai cảm được Bản thể

“Bản thể (...) thì cảm giác của người thường không thể cảm thụ được mà phải là cái thiên chân của đứa trẻ sơ sinh (…) hay cái trực quan (…) của người nào còn giữ được ít nhiều cái thiên chân của đứa trẻ con (...) trong trẻo và hồn nhiên (...) [có cái trực quan ấy thì] mới cảm thụ được một cách tổng quát mông lung gần như đứa trẻ sơ sinh cảm thụ cái thực tại ở xung quanh nó (...) Thích Ca, Lão Tử, Trang Tử” (ĐDA-1). Đào Duy Anh và Cao Xuân Huy có lần trao đổi về Đạo học. Sau khi Cao Xuân Huy trình bày cái nghĩ của mình về Bản thể, Đào Duy Anh đáp lại như trên. Theo ông, các thánh nhân dù sống bao nhiêu tuổi vẫn cứ hồn nhiên gần như khi mới đẻ!

Trang khác Lão thế nào

“Học thuyết Trang Tử là trực tiếp thừa kế tư tưởng “đạo” của Lão Tử. Nhưng đạo của Trang Tử là cái tồn tại khách quan độc lập, là cái phạm trù “tự bản tự căn”, không có quan hệ gì với thế giới hiện tượng. Trang Tử thì chỉ nhận bản thể là chân thực, và cho thế giới (...) là hư ảo. Vậy Trang Tử đã phá cái nội dung biện chứng của “đạo” của Lão Tử mà biến thành cái “đạo” tuyệt đối hoàn toàn trừu tượng. Thế giới hiện tượng thì toàn nhiên là tương đối, không có gì là hiện thực cả” (ĐDA-5). Thiền sư Thích Thanh Từ giảng Bát-nhã Tâm kinh: “Tiểu thừa nói vô thường, Đại thừa nói huyễn” (TTT). So sánh đôi lời thì thấy tư tưởng Lão Tử tương ứng với triết lý Tiểu thừa, còn tư tưởng Trang Tử thì tương ứng với triết lý Đại thừa.

Tháng 5-2017

 

_____

ĐDA-1: Nhớ nghĩ chiều hôm, 1973.

ĐDA-2: Ðất nước Việt Nam qua các đời, 1964.

ĐDA-3: Việt Nam văn hóa sử cương, 1938.

ĐDA-4: Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, 1975.

ĐDA-5: Trung Hoa sử cương, 1942.

TTT: Bát-nhã tâm kinh giảng giải, Tu viện Chơn Không, 1974.

THU TỨ (Mỹ)