Ngày 2-8-2017, trong buổi thuyết trình “Những phát hiện mới qua các tác phẩm lập bia đề thơ của các sứ giả Việt Nam ở Trung Quốc” do Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức, GS Trần Ích Nguyên (Đài Loan) đã công bố kết quả sưu tầm tác phẩm của các sứ giả Việt Nam triều Nguyễn được lập bia ở miếu Nhạc Phi (Tống Nhạc Trung Vũ Vương miếu) tại huyện Thang Âm - tỉnh Hà Nam - Trung Quốc.
Cụ thể, Vương Hữu Quang 王有光 có bài Yết Thang Âm Nhạc Trung Vũ Vương miếu (Yết kiến miếu Nhạc Trung Vũ Vương ở huyện Thang Âm), làm theo thể thất ngôn bát cú, được khắc bia năm 1848. Đây là bài thơ thứ hai của Vương Hữu Quang được tìm thấy ở Trung Quốc. Trước đó, trong lần đi sứ năm 1845, ông có bài thơ thất ngôn bát cú được lập bia ở danh thắng Ngô Khê Bi Lâm tại huyện Kỳ Dương - tỉnh Hồ Nam. Tiếc rằng dù nổi tiếng hay chữ nhưng sự nghiệp văn học của Vương Hữu Quang hiện chỉ còn hai bài thơ được khắc bia ở xứ người.
Mai Đức Thường 枚德常 có bài Thang Âm yết Nhạc Trung Vũ Vương miếu (Đến Thang Âm, yết kiến miếu Nhạc Trung Vũ Vương), làm theo thể thất ngôn bát cú, được khắc vào năm 1849. Cho tới nay, cũng chưa tìm thấy tập thơ của Mai Đức Thường còn lưu lại, vì vậy, di sản của ông chỉ có duy nhất bài thơ vừa được GS Trần phát hiện.
Nguyễn Tư Giản 阮思僩 có một bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú được khắc vào năm 1868. Bài thơ này có chép trong Yên Thiều thi văn tập với nhan đề Yết Thang Âm Nhạc Vũ Mục Vương từ kính đề (Kính đề nhân vào bái kiến đền thờ Nhạc Vũ Mục Vương ở Thang Âm) hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (có châu bút sửa một số chữ).
Trần Khánh Tiến 阮慶洊 (Chánh sứ) có bài thơ Yết Nhạc Trung Vũ từ (Bái kiến đền thờ Nhạc Trung Vũ) được khắc vào năm 1881. Cũng như Mai Đức Thường, bài thơ trên là bài thơ duy nhất của Trần Khánh Tiến còn lưu lại.
Nguyễn Thuật 阮述 (Phó sứ) được khắc bài thơ ngũ ngôn gồm 40 câu vào năm 1881. Bài thơ này được chép trong Mỗi hoài ngâm thảo với nhan đề Thang Âm yết Nhạc Vũ Mục từ (Đến Thang Âm bái kiến đền Nhạc Vũ Mục), trong đó một số câu có chữ khác với bài thơ đề trên bia.
Ngoài ra, GS Trần Ích Nguyên còn phát hiện tấm bia được khắc năm 1853 có lưu bút Phan Huy Vịnh 潘輝泳, Phạm Chi Hương 范芝香 đóng góp tiền làm bia. Hoặc ở phần phụ chú bài Yết Nhạc Vương từ (Bái kiến đền Nhạc Vương) chép trong Bắc minh sồ vũ ngẫu lục của Phạm Hy Lượng 范熙亮 có cho biết: đại khái năm 1871 trên đường đi sứ ông có thăm miếu Nhạc Phi ở Thang Âm và đề thơ; 5 tháng sau khi trở về cũng ghé qua miếu thì thấy có một tấm bia đá khá cao khắc thơ của ông trên đó, được đặt ở ngoài sân miếu với nét chữ tỉ mỉ và tinh tế. Hay trong Hoàng Bích San thi tập của Hoàng Bích San 黄碧山 có bài Quá Thang Âm huyện Nhạc Vũ Mục cố lý (Ghé qua quê hương của Nhạc Vũ Mục ở huyện Thang Âm), Phương Đình vạn lý tập của Nguyễn Văn Siêu 阮文超 có Nhạc Vũ Mục Vương cố lý chiêm yết linh từ cảm thành (Đến quê hương Nhạc Vũ Mục Vương, bái yết đền thờ, cảm xúc mà làm thơ), Châu Nguyên tạp vịnh thảo của Lý Văn Phức 李文馥 có Yết Thang Âm Nhạc Vũ Mục Vương từ (Bái kiến đền thờ Nhạc Vũ Mục Vương)… Nhưng hiện vẫn chưa tìm thấy bia đề thơ của các tác giả kể trên tại miếu Nhạc Phi.
***
GS Trần Ích Nguyên có 30 năm nghiên cứu văn học cổ điển Việt Nam, nhưng chỉ mấy năm gần đây, ông mới quan tâm đến thơ văn được viết trên đường đi sứ của các sứ giả Việt Nam. Lần theo con đường đi sứ của các sứ giả Việt Nam, GS Trần đã phát hiện nhiều bài thơ của sứ giả Việt Nam được khắc bia tại Trung Quốc. Ngoài miếu Nhạc Phi ở huyện Thang Âm - tỉnh Hà Nam, qua nghiên cứu sơ bộ bước đầu, GS Trần đã tìm thấy thơ văn của các sứ thần Việt Nam được khắc bia ở các địa danh khác như: 1. Chùa Tương Sơn ở Quế Lâm - tỉnh Quảng Tây; 2. Chùa Phi Lai ở Thanh Viễn - tỉnh Quảng Đông; 3. Danh thắng Ngô Khê Bi Lâm ở Kỳ Dương - tỉnh Hồ Nam; 4. Gác Đằng Vương ở Nam Xương - tỉnh Giang Tây; 5. Đền thờ Lã Tiên ở Hàm Đan - tỉnh Hà Bắc; 6. Miếu Á Thánh ở Trâu Huyện - tỉnh Sơn Đông; 7. Miếu Trung Phu Tử ở Tế Ninh - tỉnh Sơn Đông.
Hy vọng GS Trần sẽ sớm công bố những tác phẩm đề bia ở 7 địa danh trên. Bởi vì, đôi khi chỉ một bài thơ ngoại giao được lưu lại ở xứ người, nhưng đối với Việt Nam thì thật đáng quý. Ví như trường hợp Vương Hữu Quang, Mai Đức Thường, Trần Khánh Tiến tuy sinh thời là những người nổi tiếng hay chữ, nhưng di cảo chỉ còn bài thơ được khắc bia ở Trung Quốc.
***
GS Trần Ích Nguyên hiện là chủ nhiệm khoa Văn học Trung Quốc, Trường đại học Quốc lập Thành Công, Đài Loan, song ông lại có niềm say mê đặc biệt với văn học Việt Nam. Tuy không nói được tiếng Việt, nhưng GS Trần lại có thể giao tiếp với văn nhân Việt Nam xưa qua các di sản Hán Nôm, và ông đã có những thành tựu như: Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục bỉ giảo nghiên cứu (Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục), Vương Thúy Kiều cố sự nghiên cứu (Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều), Việt Nam Hán tịch văn hiến thuật luận (Thuật bàn về tư liệu sách chữ Hán ở Việt Nam)…
Say mê, tận tâm, tận lực trong những chuyến đi điền dã tìm kiếm di sản văn hóa Việt Nam, GS Trần Ích Nguyên cho biết, ông đã khiến người quản lý di tích tưởng nhầm là người Việt Nam. Và ông cũng lấy làm tự hào vì điều đó, ông vui vẻ nói với người quản lý di tích: “Nếu muốn có thêm tác phẩm của các sứ giả Việt Nam để khắc bia, tôi sẵn sàng cung cấp”. Ông chia sẻ: “Thật sự mà nói, vấn đề tôi nghiên cứu các bạn đồng nghiệp Đài Loan không chú ý, người Trung Quốc cũng thế và những người bạn đồng nghiệp Việt Nam càng không chú ý. Chỉ có tôi là cần mẫn với nó”.
Những phát hiện của GS Trần quả thật rất thú vị và gợi mở cho các học giả Việt Nam tiếp tục con đường nghiên cứu này. Văn học sử Việt Nam đã viết nhiều về thơ đi sứ (trong đó có các tác gia nổi tiếng với tác phẩm giá trị như Giới Hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn, Sứ Hoa tùng vịnh tập của Nguyễn Tông Khuê, Hoa trình khiển hứng của Hồ Sĩ Đống, Phụng sứ Yên Đài tống ca của Nguyễn Huy Oánh…, nhất là Nguyễn Du với Bắc hành tạp lục). Sứ giả Việt Nam bất cứ thời nào cũng nổi tiếng với tài ngoại giao ứng khẩu thành thơ khiến các bạn láng giềng phải trầm trồ nể phục, nhưng việc được lập bia đề thơ không phải ai cũng làm được. Đó chính là minh chứng đáng tự hào cho tài năng của các sứ giả Việt Nam.