* Thiền sư Vạn Hạnh 禪師萬行 (938?-1018?)
Nguyên văn:
示弟子
身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯.
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪
Phiên âm:
Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch nghĩa:
Dặn học trò
Tấm thân như bóng chớp, có đó rồi lại trở về hư vô,
Vạn vật mùa xuân tốt tươi, mùa thu lại khô héo.
Mặc cho cuộc đời dù thịnh hay suy, đừng sợ hãi,
Vì sự thịnh suy như giọt sương trên đầu ngọn cỏ.
Dịch thơ:
Thân như bóng chớp, có rồi không,
Vạn vật xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi,
Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Ngô Tất Tố dịch)
Một bài thơ cổ mà có nhà thơ phương Tây xem là rất hiện đại. Có lẽ trước biết bao triết lý bi quan về con người và cuộc đời của phương Tây, thì triết lý nhân sinh ở đây biện chứng hơn, cân bằng hơn. Sống và chết, thịnh và suy, tươi tốt và úa tàn… là một quá trình nối tiếp, hãy chấp nhận nó mà đừng sợ hãi (vô bố úy).
* Trần Thái Tông 陳太宗 (1218- 1277)
Nguyên văn:
寄清風庵僧德山
風打松關月照 庭,
心期風景共凄清.
個中滋味無人識,
付與山僧樂到明.
Phiên âm:
Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn(1)
Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình,
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh.
Cá trung tư vị vô nhân thức,
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh.
Dịch nghĩa:
Gửi sư Đức Sơn ở am Thanh Phong
Gió thổi thốc vào cửa sài, trăng chiếu rọi trên sân,
Lòng hẹn cùng phong cảnh cùng tĩnh lặng, trong sáng.
Trong cảnh ấy có cái ý vị mà không ai biết,
Chỉ để cho nhà sư một mình vui tới sáng.
Dịch thơ:
Gió thốc cửa sài(2), trăng dọi sân,
Lòng này cảnh ấy hẹn trong ngần.
Bao nhiêu ý vị nào ai tỏ,
Thâu đêm sư cụ thú riêng phần.
Đây là bài thơ của vua Trần Thái Tông 陳太宗 (Trần Cảnh 陳景) gởi cho một vị sư ở trong một cái am trên núi. Gió và trăng. Tâm và cảnh. Lời hẹn ước là tâm và cảnh đều cùng sáng trong, tĩnh lặng, cùng giũ bỏ hết bụi trần. Gió và trăng ở đây là tượng trưng cho cái chân như, cái Niết bàn vô thủy vô chung, tuyệt đẹp.
Các vua Trần đều là những thiền gia lỗi lạc. Khóa hư lục của Trần Thái Tông là một kiệt tác thiền học, thấm đẫm chất thơ thiền, bàng bạc vị thoát tục. Nhà vua sống không yên giữa bi kịch gia đình (bị ép lấy vợ của anh là Trần Liễu để có con nối dõi), ông bỏ triều đình lên núi tu thiền. Kịch Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi viết rất hay về chuyện này.
Nhưng Trần Thái Tông là ông vua Trần đầu tiên lãnh đạo Đại Việt chiến thắng Nguyên Mông, đời Nguyên Phong (元豐; 1251-1258).
_____
(1) Nhan đề bài thơ trong Toàn Việt thi lục 全越詩錄, ký hiệu A.132, tờ 11b, quyển 1 là Ký Thanh Phong am tăng chư chính 寄清風庵僧諸正
(2) Nguyên văn Tùng quan 松關: các bản dịch khác: cửa thông. Hán ngữ đại từ điển 漢語大詞典, quyển 4, La Trúc Phong 羅竹風 chủ biên, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1994, tr.877, cột 1 chú: sài môn 柴門 (cửa sài - tức cửa làm bằng củi, rất đơn sơ của chùa hay của ẩn sĩ, nhà Nho nghèo…).