HV127 - NGUYỄN AN NINH - những lần sang Pháp

LTS: Nguyễn An Ninh (1900-1943) - “nhà yêu nước vĩ đại” (lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh), người “có tầm vóc một lãnh tụ cách mạng” (Thủ tướng Phạm Văn Đồng), nhà hoạt động chính trị - văn hóa lỗi lạc, ngọn cờ đầu của phong trào yêu nước ở nước ta những năm 20 - 30 thế kỷ 20, người bạn - người đồng chí của Nguyễn Ái Quốc, người đã 5 lần vào tù thực dân, 5 lần sang Pháp làm công tác cách mạng và hy sinh trong tù ngục đế quốc - phát xít (1943), người đã hiến dâng tất cả cho việc giải phóng đất nước và đặc biệt, có tầm cỡ của một nhà văn hóa lớn, lỗi lạc một thời. Tấm gương của ông cần phải được chúng ta làm sáng chói hơn nữa cho ngày nay và các thế hệ mai sau…

Nhân dịp 75 năm ngày mất của ông (1943-2018), Hồn Việt xin giới thiệu bài viết của con gái ông - bà Nguyễn Thị Minh - với rất nhiều tư liệu quý giá chưa từng được biết đến

Lần I từ giữa năm 1918 đến giữa năm 1920: Sang Pháp để học những điều hay.

Nguyễn An Ninh trốn sang Pháp lần đầu tiên vào giữa năm 1918, vì trốn nên đi không có hộ chiếu, phải nhờ thủy thủ giấu trên boong tàu. Lúc này chiến tranh thế giới lần thứ nhất sắp sửa kết thúc, người dân Paris di tản xuống phía Nam đang lục tục trở về, là thời cơ thuận lợi cho những ai muốn đến Paris thoát khỏi sự kiểm soát của nhà cầm quyền. Ông nội tôi là cụ Nguyễn An Khương liên can trong vụ án chính trị của cụ Trần Chánh Chiếu trong phong trào Đông Du, nên con cháu đều bị cấm xuất dương.

Ba tôi sang Pháp với mong muốn tìm hiểu luật lệ của nước Pháp, học hỏi những điều hay của nền văn minh Pháp để về giúp đỡ đồng bào đấu tranh chống luật lệ hà khắc của bọn cai trị ở thuộc địa.

Ba tôi rất may mắn gặp được người thầy ở trường Đại học Sorbonne, đó là giáo sư Marcel Cachin, một nhà cách mạng lỗi lạc, một nhà tư tưởng lớn của Pháp. Giáo sư cũng sớm phát hiện sự thông minh vượt bậc ở trí tuệ của người sinh viên trẻ nên ông tạo mọi điều kiện để ba tôi phát huy hết trí tuệ của mình. Giáo sư đã đưa ba tôi đi hầu hết các diễn đàn của trí thức Pháp, nơi đó mọi tư tưởng, xu hướng chính trị được trình bày và tranh luận công khai. Giáo sư còn hướng dẫn ba tôi đến các thư viện, giới thiệu các công trình triết học và khoa học, lập danh mục các tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại để tìm hiểu, các tạp chí lý luận, phê bình để đọc v.v… Ba tôi đã nghiêm túc tiếp thu mọi sự chỉ dẫn của giáo sư, không bỏ sót một điều gì để học hỏi, để chắt lọc những tinh hoa của kiến thức làm hành trang bước vào đời. Tình thầy trò đã dần dần chuyển thành tình cha con không chỉ riêng cho ba tôi mà còn cho cả Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, giáo sư đã chuyển hướng ba chàng thanh niên yêu nước thành ba nhà cách mạng, từ khi ông đang là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Pháp đến khi đại diện cho Đảng Cộng sản Pháp ở Quốc tế Cộng sản, ông luôn tìm cách giúp đỡ khi họ gặp khó khăn.

Ngoài thầy, ba tôi còn kết bạn với những nhà văn, nhà báo Pháp để có thêm sự giúp đỡ của bạn bè. Như Paul Vaillant Couturier, một nhà báo lớn, cũng là người anh của những nhà cách mạng, là người năm 1933 có sang Sài Gòn và có nhận bảng danh sách tù chính trị từ Nguyễn An Ninh về đấu tranh trước Quốc hội Pháp. Như bà André Viollis, nhà báo nổi tiếng sang Sài Gòn cuối năm 1931, đến thăm nhà Nguyễn An Ninh tại Hóc Môn, được ba tôi đưa đi khắp nơi, khi về Pháp bà đã viết quyển Đông Dương SOS tố cáo chánh sách cai trị của thực dân ở Đông Dương. Như nhà báo Léon Werth, sang Sài Gòn giữa năm 1924, được ba tôi đưa đi khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, khi về Pháp ông đã viết quyển La Cochinchine tố cáo bọn thực dân cai trị bằng rượu và thuốc phiện. Như nhà văn lớn Romain Rolland của Pháp, được giải Nobel năm 1915, đã kêu gọi trên các báo Pháp năm 1926 đòi thả Nguyễn An Ninh, khi ba tôi bị bắt lần đầu tiên tại Sài Gòn ngày 24-3-1926 v.v…

Ngoài bạn bè Pháp, những năm đầu sang Paris, ba tôi còn được sự thương yêu của đồng bào Việt Nam đang sinh sống tại Paris, họ là thủy thủ, công nhân, là lính bị bắt sang Pháp rồi ở lại làm việc. Họ sống trong khu phố lao động ở đường Cujas gần trường Sorbonne, họ dành mọi sự chăm sóc che chở cho cậu sinh viên trẻ hoạt bát, học giỏi nổi tiếng.

Với quyết tâm học để nâng cao kiến thức, ba tôi đã học ngày học đêm, học cho đến khi buồn ngủ lăn ra đất, các bác trong khu trọ phải bế lên giường, phải ủ ấm để không bị cảm. Chỉ sau một năm vào đại học ba tôi đã hoàn tất chương trình của 4 năm, cứ 3 tháng ba tôi đăng ký thi chương trình của một năm, nên chỉ một năm đã có tấm bằng Cử nhân Luật. Kết quả học tập xuất sắc đã khiến ngài bộ trưởng và viên chức cao cấp Bộ Thuộc địa Pháp yêu quý Nguyễn An Ninh, và ba tôi được cấp hộ chiếu để tiếp tục du học.

Tháng 5-1920, ba tôi về Sài Gòn trình diện với ông nội.

Lần II từ tháng 7-1920 đến tháng 10-1922: Sang Pháp để mua sách quý về chuẩn bị con đường khai dân trí.

Tháng 7-1920, ba tôi trở sang Pháp du học với tờ hộ chiếu mới. Lần này ba tôi mang theo nhiều tiền với ý đồ mua thật nhiều sách quý đem về, đồng thời sẽ đi du lịch một số nước có nền văn minh tiến bộ, dân chúng có cuộc sống hạnh phúc để học hỏi.

Sang lần này, mọi thứ đã quen như trở về nhà, thầy và bạn bè đều vui mừng; có hai người mong ba tôi nhất, đó là cụ Phan Châu Trinh và bác Nguyễn Ái Quốc. Cụ Phan mong ba tôi sang Pháp để tiếp tục làm phiên dịch đưa cụ đi khắp nơi, nhất là đi gặp các nhà cầm quyền, cụ chỉ tin có mình Nguyễn An Ninh là dịch đúng tâm ý của cụ. Cũng nhờ đi với cụ mà ba tôi được gặp hầu hết viên chức cao cấp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, ai cũng quý mến cậu thanh niên còn rất trẻ, học giỏi, rất lịch sự và nói đúng tiếng Pháp như một người Pháp lịch lãm, đặc biệt là Pasquier, sau này làm Toàn quyền Đông Dương, cứ thuyết phục Ninh để cho ông ta đỡ đầu trong việc học hành, muốn Ninh làm con nuôi ông ta. Còn Nguyễn Ái Quốc chỉ lo nhà cầm quyền trong nước không cho Ninh sang. Không có Ninh, bác Quốc đến quán cơm sinh viên, đi làm người mẫu, ngồi sửa ảnh, vào thư viện có một mình, đọc sách không có người cùng trao đổi. Ba tôi cũng nhớ bác vì bác luôn nhắc nhở việc chăm sóc sức khỏe, học hành điều độ nơi xứ lạ quê người.

Ba tôi lại miệt mài viết luận án tiến sĩ luật với đề tài “Tính dân chủ ở các làng xã Việt Nam”. Luận án đã viết xong, chỉ còn đăng ký bảo vệ để nhận bằng, việc học đối với ba tôi không có gì khó khăn.

Nhưng một sự kiện chính trị lớn đã xảy ra trên đất Pháp cuối năm 1920: sự kiện ra đời Đảng Cộng sản Pháp. Hầu hết những người mà ba tôi kính mến từ thầy, bạn thân và cả Nguyễn Ái Quốc đều đứng về phía cộng sản. Một Đảng Xã hội lâu đời, lớn mạnh, có nhiều người lãnh đạo tài giỏi đã bị phân hóa. Một Đảng Cộng sản mới ra đời, tiếng tăm chưa có, cơ sở quần chúng chưa có, ngay cả trụ sở còn chưa biết ở đâu mà lại có nhiều người tài giỏi ủng hộ? Vậy lý tưởng cộng sản là gì? Đây có phải là con đường mơ ước của nhân loại?

Nhiều đêm mất ngủ, ba tôi dành nhiều thời gian cùng bác Quốc vào thư viện đọc Tuyên ngôn cộng sản của Mác, cùng trao đổi, cùng so sánh với Tuyên ngôn nhân quyền của Pháp. Cuối cùng ba tôi quyết định không bảo vệ luận án tiến sĩ, từ đây sẽ sát cánh cùng Nguyễn Ái Quốc để tìm đường cứu nước cứu dân.

Những năm sau khi đã về nước hoạt động, khi đã thức tỉnh thanh niên bằng những bài báo, bài diễn thuyết, Nguyễn An Ninh đã cho đăng trên tờ Tiếng chuông rè năm 1926 cùng một lúc hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn cộng sản của Mác và Tuyên ngôn nhân quyền của Pháp để giới trí thức nghiên cứu và so sánh những điều đúng, những giá trị đích thực của hai bản tuyên ngôn.

Cũng trong thời gian này ba tôi có thêm một người bạn nữa cũng rất thân như anh em một nhà, đó là Nguyễn Thế Truyền. Bác Truyền học ở Toulouse, thỉnh thoảng lên Paris ghé thăm cụ Phan, bác Truyền đã quen thân với Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn An Ninh. Bây giờ Nguyễn Thế Truyền lên Paris để học tiếp ở Đại học Sorbonne. Tình bạn giữa ba người thanh niên họ Nguyễn ngày càng thân thiết, rồi bác Truyền cũng bỏ học để cùng với Nguyễn An Ninh làm hai cánh tay đắc lực cho Nguyễn Ái Quốc suốt thời gian Người hoạt động tại Paris.

Ba con người cùng một hoài bão, họ không lãng phí thời gian, cùng nghiên cứu, cùng trao đổi và họ đã nhận ra mục tiêu đấu tranh của dân tộc Việt Nam là giải phóng dân tộc. Con đường đấu tranh còn mờ mịt và đầy chông gai, họ phải bắt đầu, phải đạt được mục tiêu, bao nhiêu cuộc đấu tranh của cha ông là bấy nhiêu bài học mà họ phải ghi nhớ. Trước mắt là phải gây dựng phong trào trong nước. Ai về nước thích hợp nhất?

Nguyễn Ái Quốc về sẽ bị bắt ngay.

Nguyễn Thế Truyền còn vướng bận gia đình.

Nguyễn An Ninh là thích hợp nhất, nhưng Ninh còn quá trẻ, chỉ lo quần chúng không chấp nhận.

Ba tôi quyết tâm sẽ làm để quần chúng chấp nhận.

Trước khi về nước ba tôi đi du lịch các nước và tìm mua sách để gửi lại bác Truyền, bác sẽ gửi dần qua đường dây thủy thủ mang về cho ba tôi. Đường dây thủy thủ này do cô ruột của ba tôi là bà Chiêu Nam Lầu tổ chức từ phong trào Đông Du, bí mật đưa thanh niên yêu nước sang Nhật du học. Đường dây này cũng giúp ba tôi mang về rất nhiều sách quý, kể cả sách cấm để Nguyễn An Ninh có được tủ sách đủ loại lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Đường dây này còn giúp nhiều cho Nguyễn An Ninh đến năm 1927 khi Chiêu Nam Lầu ngưng hoạt động.

Ba tôi đến chào ngài Bộ trưởng và các quan chức Bộ Thuộc địa để về nước cưới vợ rồi sang học tiếp. Ngài Albert Sarraut khuyên ba tôi ráng học sẽ được chánh phủ Pháp trọng dụng với chức quan to nhất, ba tôi hỏi: “Các ông có thể giao tôi chức toàn quyền được không?”, ngài Bộ trưởng ngạc nhiên không trả lời.

Tháng 10-1922 ba tôi xuống tàu về nước.

Lần III từ tháng 2-1923 đến tháng 8-1923: Sang Pháp để mời ông Phan Văn Trường về làm báo và bàn công việc với Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền.

Về nước với quyết tâm làm sao để quần chúng chấp nhận và ủng hộ việc làm của mình, ba tôi suy nghĩ nhiều lắm, cái khó là bắt đầu như thế nào. Được sự động viên của ông nội, ba tôi thử sức bằng một bài diễn thuyết, việc này thì ba tôi cùng bác Quốc, bác Truyền làm nhiều lần ở Pháp rồi. Bài diễn thuyết được đăng đàn lần đầu tại Hội Khuyến học Nam Kỳ vào tối ngày 25-1-1923 với đề tài “Nền văn hóa cho dân Annam” xoay quanh nội dung “Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc, dân tộc nào bị thống trị bởi nền văn hóa ngoại bang thì không thể có độc lập thật sự”.

Bài diễn thuyết chưa đụng gì đến nhà cầm quyền, nhưng khơi gợi tinh thần dân tộc chống ngoại bang. Hội trường hôm ấy đông nghẹt, phần lớn là thanh niên, có cả người lớn tuổi, tiếng vỗ tay hoan hô từng hồi và không ai bỏ ra về. Vậy là đồng bào chấp nhận, mặc dù diễn giả là một thanh niên trẻ măng, chưa có tiếng tăm. Mừng quá, ba tôi chuẩn bị trở sang Pháp ngay để báo tin vui, ba tôi xin phép nhà chức trách sang Pháp du học tiếp.

Lần này công việc chỉ thu xếp trong vài tháng, mặc dù mang theo nhiều tiền nhưng ba tôi không thuê phòng trọ mà đến ở nhà luật sư Phan Văn Trường tại căn hộ của ngôi nhà số 6 đường Villa des Gobelins. Nói đến căn hộ này, má tôi thường nhắc đến một người đó là ông Nguyễn Đình Khánh, tức nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Khánh Ký. Ông sang Pháp sau ông Trường, nhưng trước cả cụ Phan Châu Trinh. Sang Pháp ông tạo danh tiếng bằng cách chụp các buổi đại lễ và săn chụp chân dung các quan chức cao cấp gửi đăng báo nên nổi tiếng, ông mua bán cả phụ tùng máy ảnh nên giàu có. Ông muốn tìm một người Việt Nam làm bạn và tìm đến ông Phan Văn Trường. Ông Trường lúc đó còn khó khăn, dạy tiếng Việt cho một trường Ngôn ngữ Phương Đông, nên thuê phòng trọ rẻ tiền, không có lò sưởi, mùa đông phải trốn vào thư viện để đọc sách, tránh rét buốt. Hai ông rất hợp nhau nên ông Khánh Ký thương ông Trường như em. Ông thuê căn hộ tại ngôi nhà số 6 đường Villa des Gobelins đủ tiện nghi cho ông Trường ở, cùng ông Trường đi ăn, cùng ông Trường đi du lịch, ông là mạnh thường quân cho ông Trường suốt những năm ông còn ở bên Pháp, ông cũng quý những người bạn Việt Nam lui tới nhà ông Trường, giúp đỡ họ, kể cả sau này ông đã về Sài Gòn. Căn hộ trên ông Trường chỉ trả tiền thuê từ giữa năm 1921 khi ông Ký xuống tàu về nước.

Từ ngày ông Khánh Ký về, ông Trường cũng muốn về Sài Gòn nhưng vì ông Trường có quốc tịch Pháp, là người Pháp nên muốn định cư nơi nào phải có sự đồng ý của nhà chức trách. Khi ba tôi sang mời ông về Sài Gòn làm báo, ông vui vẻ nhận lời nhưng phải đợi xin phép làm thủ tục.

Tình hình trong nước quá thuận lợi cho việc diễn thuyết và làm báo, nhất là đất Nam Kỳ. Từ mấy năm nay trên đất Pháp, bác Quốc, ba tôi và bác Truyền ngoài tập diễn thuyết, đã tập viết báo, tập làm báo từ khâu biên tập, xếp chữ, in đến phát hành, họ đều có thể xoay sở khi gặp khó khăn.

Phong trào trong nước là quan trọng nhất, việc trở về của Nguyễn An Ninh đã tạm ổn. Việc tiếp theo là chuẩn bị chuyến đi xa cho Nguyễn Ái Quốc. Tiền thì ba tôi đã có sẵn nhưng đi phải do đảng Pháp tổ chức, Đảng Cộng sản Pháp nghèo vật chất, nhưng tình nghĩa thì quá giàu, giai đoạn này cũng thuận lợi, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp đều là những nhà cách mạng chân chính, hết lòng giúp đỡ những nhà cách mạng trẻ ở các thuộc địa. Má tôi thường nhắc lại lời ba tôi: Không phải người lãnh đạo nào của Đảng Cộng sản Pháp cũng ủng hộ giải phóng thuộc địa, thuộc địa là quyền lợi của nước Pháp, họ chỉ ủng hộ cải cách chế độ cai trị thuộc địa, họ không muốn mất thuộc địa, điều này đã chứng minh vào những năm sau này khi một số nhà cách mạng chân chính Pháp bị thanh trừng.

Ông Trường không xin được thủ tục về nước định cư, nhà chức trách chỉ cho phép ông về thăm quê ở miền Bắc. Vì vậy mà ba tôi không chờ ông Trường về cùng.

Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật sang Nga, chỉ còn Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh ở lại, ba tôi giúp bác Truyền thu xếp công việc và ổn định cuộc sống nhằm duy trì cho tờ báo Le Paria và phong trào yêu nước ở Pháp.

Tháng 8-1923, ba tôi trở về nước.

Tháng 12-1923, ông Trường mới được phép về thăm quê.

Trong bức thư Nguyễn Ái Quốc viết từ giã bạn bè cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp trước lúc sang Nga có đoạn viết:

“Chúng ta phải làm gì?

Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta.

Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước đi vào quần chúng thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập.

Có lẽ một vài người trong các bạn cũng phải và có thể làm như tôi. Còn các bạn khác thì tiếp tục công việc hiện thời của chúng ta: củng cố Hội Liên hiệp thuộc địa và phát triển tờ báo Người cùng khổ của chúng ta.

Các bạn thân mến,

Tôi từ giã các bạn, tôi xa các bạn, nhưng lòng tôi luôn luôn gần các bạn.

Các bạn tha lỗi cho tôi không hôn các bạn trước khi đi. Các bạn biết rằng tôi bị theo dõi riết.

Khi các bạn được thư này Nguyễn của các bạn ít nhất cũng đã xa nước Pháp hai mươi bốn giờ rồi”.

(Hồ Chí Minh tuyển tập - tập 1, trang 13 - NXB Sự thật, 1980).

Sau khi ba tôi về nước, bác Truyền ở lại Pháp tiếp tục công việc và giữ mối liên lạc giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn An Ninh.

(Còn tiếp kỳ sau)

NGUYỄN THỊ MINH