1. Ở Quảng Nam quen gọi: đi xem hát bội. Có lẽ như trong sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839), Thị giảng đại học sĩ, thời Minh Mạng, gọi sân khấu truyền thống của ta là phường chèo bội. Cho nên cụ Phạm Phú Tiết (1894-1980), Tổng đốc Bình Phú, thời Bảo Đại, nhà nghiên cứu tuồng cổ, trong cuốn Hội thoại về lịch sử nghệ thuật sân khấu Tuồng, cho rằng Phạm Đình Hổ gọi chữ “bội”, là bội nhị, bội tam (tăng lên) là thuyết phục, bởi nghệ thuật sân khấu hát bội là ước lệ, cách điệu nhiều hơn so với cuộc sống thường nhật.
Tuồng có mặt ở xứ Quảng từ bao giờ? Sách Việt sử xứ Đàng Trong, của nhà sử học Phan Khoang (1906-1971), đề cập tới chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635), Trấn thủ dinh trấn Thanh Chiêm (Thuận Quảng) có Đào Duy Từ là danh sĩ, hàm Nội tán đã khởi thảo vở tuồng Sơn Hậu. Nhà thơ Tố Hữu cho rằng vở tuồng này đạt đến cái sublime (trên tuyệt vời, trên cái đẹp). Còn ông Lê Duẩn, xem xong, nói: “Cho đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, vẫn còn nguyên giá trị của nó”. Cho đến nay, Sơn Hậu vẫn là vở tuồng cổ thuộc loại hay nhất. Sử liệu cũng ghi rằng, Đào Duy Từ là người có công xây dựng nghệ thuật tuồng ở nước ta. Đến năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu tổ chức diễn tuồng để chiêu đãi khách là nhà sư Thích Đại Sán (Trung Quốc). Trong cuốn Hải ngoại ký sự, Thích Đại Sán diễn tả: “Nhà chúa hào hứng đánh một chiếc trống to để trước sàn diễn, giống như điểm nhịp cho diễn viên (các ngành kịch hát Trung Quốc không có trống chầu). Nhà sư cho đó làn điệu cũng lạ, cách diễn cũng lạ, quan khách xem ai cũng tỏ vẻ hào hứng”. Như thế, ở Thuận Hóa (Thừa Thiên Huế), tuồng đã xuất hiện từ giữa thế kỷ 17. Sau nửa thế kỷ 18, tuồng Bình Định đã phát triển đến mức có chức vụ Nhưn trưởng (tức người phụ trách một gánh tuồng). Ở tận Gia Định, vào thời điểm đó cũng đã có tuồng và rạp hát tuồng.
Gánh tuồng Khánh Thọ, ở Tam Kỳ, Quảng Nam, có thể xuất hiện từ thời Gia Long (1802- 1820), hoặc chậm nhất là thời Minh Mạng (1820- 1841). Trên một tấm bia đá ở làng Khánh Thọ có ghi rằng, vào triều Minh Mạng, tu bổ xong đình làng, làm lễ khánh thành có mời gánh tuồng đến diễn mấy đêm. Tương truyền, vua Tự Đức có xem gánh tuồng này biểu diễn và phán rằng: “Ca vũ nải Khánh Thọ giáo phường/ Bình xướng tất Quảng Nam trung thanh” (Múa, hát [hát bội] thì phải nói đến gánh hát Khánh Thọ/ Bình văn, xướng văn tất phải dùng tiếng Quảng Nam [được xem là] trung thanh). Trong một bài văn tế Tổ nghề tuồng Quảng Nam có câu: “Từ vua Minh Mạng xây dựng xong Thự việt thường, đến vua Tự Đức, bảo diễn tuồng nên học theo tiếng trung thanh của Quảng Nam” (đây chỉ về âm sắc, chất giọng địa phương, êm ái, dễ nghe hơn hai nơi là Thừa Thiên Huế và Bình Định chăng?).

Cảnh trong vở "Hộ sanh đàn"
2. Tuồng là nghệ thuật bác học, song rất gần với quần chúng lao động, là loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần, là bộ môn nghệ thuật diễn xướng có giá trị sâu sắc về kịch bản văn học (lời hát, lời thoại, thơ phú), về vũ điệu, âm nhạc, phục trang, cảnh trí. Tuồng là tích chuyện, là nhân vật, có đủ sắc thái hỉ, nộ, ái, ố, phản ánh, minh họa tính cách, thái độ, quan niệm sống, những vui buồn, ẩn uất, những ước mơ, khát vọng cháy bỏng của con người trước biến thiên, nghịch cảnh ở đời. Người trung, kẻ xu nịnh rạch ròi. Cái ác bị lên án, vạch mặt, trừ diệt. Cái tốt được ngợi ca, tôn vinh, thu phục nhân tâm. Đi xem một buổi diễn tuồng cùng lúc thưởng thức giọng nam ai, nam bình, xuân nữ, tẩu mã, hát lý, hát khách, vuốt râu, đảo mắt, múa đao kiếm, cung thương, đi hài… là để khóc, cười, căm giận, hả dạ, reo vui, chia sẻ, cảm thông cùng nhân vật. Chỉ một khoảng sân khấu, hay chiếu tuồng vài chục mét vuông dưới bóng cây đa, bãi cỏ, sân đình hay rạp hát, trường hát, là cả một triều đình vua chúa xưa, một chiến trường ác liệt, một làng mạc, núi rừng, sông biển và những cuộc đấu trí, đấu tài cân não, hay những mối tình đẫm lệ, những đạo nghĩa hiếu trung, phò chánh trừ tà, hào khí yêu nước thương nhà, dù cách điệu, ước lệ hay tượng trưng đều hiện lên sống động, như cảnh thật đâu đó ngoài đời. Có lẽ vì tính chất độc đáo, đặc sắc đó mà người xem, nghe tuồng xứ Quảng có sự cảm nhận, thẩm thấu truyền đời như một lẽ tự nhiên.
Giáo sư Hoàng Châu Ký, nguyên Viện trưởng Viện Sân khấu, cho rằng: “Tuồng là nghệ thuật truyền thống lâu đời của dân tộc Việt và cũng là nghệ thuật “đặc sản” của nhân dân Quảng Nam”. Món “đặc sản” ấy ra đời, lan tỏa, phát triển và tồn tại khắp làng xã ở Quảng Nam, nở rộ từ những năm 1860, xuất hiện nhiều bầu gánh như Nhưn Giai, Nhưn Bính, Nhưn Thảo, Nhưn Ất, Nhưn Thịnh, Nhưn Bích, Nhưn Đà, Nhưn Thọ, Nhưn Đá, Nhưn Nguyên, Đội Tảo…
Có trường hợp khi xem cụ Nhưn Đá diễn vai Đổng Kim Lân, cụ Nhưn Nguyên diễn vai Khương Linh Tá trong tuồng Sơn Hậu, vua Thành Thái đã tôn danh cụ Đá là “Thế thượng vô song”, cụ Nguyên là “Nhân gian đệ nhất”. Ông Đội Tảo (Nguyễn Nho Túy) được các quan đầu tỉnh, huyện và công chúng ca ngợi là “Con rồng trên sân khấu”. Có diễn viên nữ hát hay, được đi vào ca dao:
“Dù cho nhịn đói ăn rau
Cũng xem cho được con đàu [đào] Phó Phương”
Nói về “Ngũ mỹ” (năm vẻ đẹp) của hát tuồng xứ Quảng, có: lão văn ông Phẩm, lão võ ông Đệ, vai nịnh ông Lai, vai tướng ông Túy, vai hài ông Khôi. Đó là những diễn viên đặc biệt xuất sắc khi đóng các vai vua, người già, tướng lĩnh, hề hài, nịnh thần, không có diễn viên nào sánh được. Như Chánh Phẩm, đóng vai vua đói, khi lạc vào rừng, ông diễn và hát câu hát nam: “Tay vịn cành, tuốt lá làm cơm” thật đến nỗi, có một bà lão đang xem tuồng, ra mua tô cháo đem lên sân khấu cho vua vì tưởng là vua đói thật! Ông Đội Tảo có 36 kiểu cười (cười vui, cười hề, cười nịnh, cười chế giễu, cười buồn, cười đau, cười sảng...).
Nói đến tuồng, người dân xứ Quảng đều biết và nhắc đến một số nhân vật kiệt hiệt trong lĩnh vực này, như cụ Tuần An Quán Nguyễn Hiển Dĩnh, khi làm Tuần vũ tỉnh Quảng Trị, bị giáng hai cấp vì lấy gỗ công xây dựng rạp hát, lấy tiền công quỹ nuôi diễn viên tuồng. Lúc làm Tri huyện Hà Đông, mỗi sáng ra công đường, cụ bảo lính sắp hàng đứng hai bên, cụ ngồi vào ghế, cất giọng hát khách hoặc bạch một câu rồi xưng danh:
“Quyền Tri huyện Hà Đông
Ngã danh xưng Nguyễn Dĩnh”
Khi cụ trở lại nơi đây làm việc, nhân dân địa phương bày tỏ lòng ngưỡng mộ cụ, có câu: “Nguyễn Dĩnh trùng lai thiên hữu nhãn/ Hồ Thiều bất khứ địa vô mô” (Nguyễn Dĩnh trở lại đây trời có mắt/ Hồ Thiều không đi khỏi đây thì đất không còn cỏ).
Là một ông quan cá tính, thấm thía cái đau đời của một vị quan thanh liêm dưới triều Nguyễn mạt thời, cụ viết một câu cay đắng trong vở tuồng Phong Ba Đình: “Bị gậy ăn mày, võng lọng quan” (Võng lọng quan, cũng chỉ là ăn mày thực dân Pháp mà thôi).
Khi đương chức cụ thường nói với các quan: “Tiến vi đại quan, thoái vi hưu quan, còn tôi: Tiến vi quan, thoái vi bầu gánh”. Cụ từ quan về nhà mở trường dạy tuồng, nghiên cứu, sáng tác vở diễn và diễn tuồng phục vụ công chúng. Khi dạy, truyền nghề cho học trò, cụ thường ngồi trước cái trống, cầm dùi; trò nào hát đúng, diễn khéo, cụ đánh thùng thùng, trò nào diễn sai, cụ đánh vào tang (cạnh) trống cắt, cắt, rồi nhắm mắt ngó lơ. Các thế hệ học trò của cụ, sau này đều là những diễn viên nổi tiếng khắp nước và được phong tặng danh hiệu dưới thời cách mạng như NSND Nguyễn Phẩm, Nguyễn Lai, Nguyễn Nho Túy, Ngô Thị Liễu, NSƯT Văn Phước Khôi, Tư Bửu, Vĩnh Huế, Nguyễn Thử... Người được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh là kịch tác gia Tống Phước Phổ, cháu cụ Dĩnh, đã viết hơn 100 kịch bản tuồng.
Trong kháng chiến chống Pháp, từ những năm 1952, đoàn tuồng cách mạng đầu tiên - Đoàn tuồng Liên khu 5 - ra đời, quy tụ gần như hầu hết các diễn viên tuồng từ các gánh hát ở Quảng Nam lên xây dựng vở diễn phục vụ nhân dân, bộ đội, cán bộ các tỉnh huyện Khu 5. Có những vở diễn “hiện đại” như Chị Ngộ của Nguyễn Lai được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Khi xem diễn đến hồi tên sĩ quan Pháp quá tàn ác đối với chị Ngộ, khán giả căm phẫn hô vang đả đảo và có thứ gì trên tay đều ném lên sân khấu đòi giết tên Pháp. Năm 1967, trong kháng chiến chống Mỹ, Quảng Nam có Đoàn tuồng Giải phóng, có em chưa tới 15 tuổi, được NSƯT Tư Bửu về dạy nghề, sau ra Hà Nội, được các NSND Sáu Lai, Đội Tảo, Nguyễn Thị Liễu, GS Hoàng Châu Ký đào tạo bài bản.
***
Tết về xứ Quảng xem tuồng, vì làng xã nào cũng có xuân kỳ, thu tế. Các lễ tiết này bao giờ cũng có diễn tuồng ở đình làng, miếu thần, nhất là ngày Tết thì nơi nào cũng dựng rạp diễn tuồng, có khi diễn cả tháng trời với những vở cổ nhiều hồi, nhiều lớp, xem là không dứt ra được, như xem các tuồng Tam Quốc, Tam hạ nam đường, Sơn Hậu, Hộ sanh đàn... Xem tuồng đến nỗi trong dân gian Quảng Nam có câu ca: “Trồng trầu thả lộn dây tiêu/ Con theo hát bội, mẹ liều con hư/ Ngó lên hòn núi Mù U/ Con theo hát bội, xuân thu mẹ buồn”.
Có lẽ, cho đến nay Quảng Nam là nơi còn nhiều đội tuồng, câu lạc bộ tuồng nhiều nhất. Họ giữ nguyên cách hoạt động như ngày xưa, tự may cắt, dán phục trang, áo mão, gọt đẽo cung đao, sao chép các bổn tuồng cổ, khi hát có người sau màn nhắc từng câu chữ; và cũng tự nguyện đóng góp tiền nong cho các chi phí đêm diễn. Rạng ngày, họ lại ra đồng canh tác, hoặc đi tứ xứ làm đủ nghề để sinh sống. Niềm vui và hạnh phúc nhất của họ là được diễn tuồng trong mỗi dịp Tết đến, xuân về hay hội hè nào đó trong năm. Vậy thôi!
Tôi nói, Tết về xứ Quảng xem tuồng, là có nguồn căn. Nguồn căn đó là, trầm tích của sức sống văn hóa dân gian không dễ gì bật gốc, phai nhạt được ở vùng đất địa linh nhân kiệt này.