Hòa thượng Thích Trí Quang là một trong những nhân vật lịch sử Việt Nam được dư luận thế giới đặc biệt quan tâm trong những năm 1960, giữa cuộc chiến tranh Mỹ - Việt ác liệt ở miền Nam Việt Nam. Bước vào những năm 1960 khi ông cầm đầu cuộc vận động đòi bình đẳng tôn giáo, chủ quyền dân tộc và hòa bình tại Việt Nam, báo chí phương Tây gọi ông là “Người làm rung chuyển nước Mỹ”!
Phật giáo chống Ngô Đình Diệm 1963, hay sự trỗi dậy của một lực lượng dân tộc khác ở miền Nam
Ngọn lửa tự thiêu Quảng Đức chống chế độ Ngô Đình Diệm vào sáng ngày 11-6-1963 đã tác động làm thay đổi cuộc đời một sinh viên bình thường như tôi. Nghe phong thanh có một cuộc xuống đường lớn của Phật giáo, tôi chạy nhanh về phía ngã tư Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám) và Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), vượt qua các phóng viên người nước ngoài, hướng về phía đám đông sư ni cùng đồng bào phật tử đang tụ tập. Một nhà sư cao gầy, nét mặt bình thản, bước ra khỏi chiếc xe hơi sơn trắng. Ông từ tốn bước về ngã tư, xếp bằng ngồi xuống, hai tay chắp lại và nhắm mắt tham thiền. Bỗng một đám lửa màu vàng cam bùng lên, nhận chìm toàn thân ông trong biển lửa. Mọi người đồng loạt quỳ xuống tụng niệm.
Tôi vẫn còn nhớ như in người phóng viên hãng thông tấn UPI (Mỹ) Malcolm Browne la lớn: “Oh my God! My God!” (Trời ơi!) và tay anh bấm máy lia lịa. Anh ta bỗng chốc nổi tiếng khắp thế giới với các tấm hình này. Ngày hôm sau, hình ảnh nhà sư Việt Nam trong ngọn lửa có mặt trên hầu hết trang nhất báo chí thế giới và mọi người mới hay biết rằng đang có một cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do tại một đất nước nhỏ bé, xa xôi mang tên Việt Nam. Từ ấy, tấn bi kịch Việt Nam trở thành đề tài thời sự nóng bỏng của giới truyền thông quốc tế.
Thật ra trước sự kiện Phật giáo năm 1963, tại miền Nam đã nổ ra cuộc xung đột đẫm máu diễn ra chủ yếu ở nông thôn giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn. Cuộc chiến đó đang lan dần đến các thành thị, gia tăng theo đà bất mãn của quần chúng nhân dân. Tôi đã nghe nói có nhiều nhà trí thức bị bắt giam vì đã hội họp ở khách sạn Caravelle ký kiến nghị gửi lên Tổng thống Ngô Đình Diệm đòi tự do dân chủ. Họ đã bị bắt. Bản thân tôi cũng đã từng cùng người dân thành phố hiếu kỳ nhưng bàng quan, ùa về Dinh Tổng thống mục kích cuộc đọ súng qua lại giữa lực lượng quân dù của đại tá Nguyễn Chánh Thi và vệ binh ngày 11-11-1960. Cuộc đảo chính thất bại sau những bi hài kịch thương thảo và phản bội giữa hai bên. Lại thêm hàng loạt người bị bắt bớ giam cầm. Vào năm 1962, tôi cũng nhìn thấy 2 chiếc máy bay ném bom Dinh Tổng thống, nhưng cũng không đi đến đâu.
Khởi đi là việc chính quyền cấm treo cờ Phật giáo vào mùa Phật đản tại Huế cùng vụ tàn sát học sinh ở đài phát thanh vào tháng 4, để tiến đến đỉnh cao là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức, rồi cuộc bố ráp chùa chiền, bắt bớ hàng nghìn sư sãi ở Sài Gòn và các tỉnh vào cuối tháng 8. Cuộc đấu tranh của Phật giáo lần này có quy mô to lớn và mang tính cách quyết liệt hơn, đã nổ ra suốt mùa hè năm 1963 để kết thúc là sự sụp đổ của chế độ Diệm vào tháng 11 sau một cuộc đảo chính quân sự.
.jpg)
Thầy Trí Quang và tác giả, năm 2007
Trầm trọng nhất là việc tổng tấn công vào chùa chiền cả miền Nam cuối tháng 8. Hàng nghìn sinh viên học sinh đã xuống đường phản kháng, mặc cho lịnh giới nghiêm của tổng trấn Sài Gòn-Gia Định. Nữ sinh Quách Thị Trang bị bắn chết trước chợ Bến Thành và hơn 3.000 học sinh sinh viên bị bắt giam chật ních Nha Cảnh sát đô thành và Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Tôi chạy thoát, nhưng có hai đứa em bị bắt. Thành phố bị thiết quân luật và trường học đóng cửa. Cuộc đấu tranh chuyển vào bí mật. Hàng trăm tổ chức tranh đấu ra đời, như nấm sau cơn mưa.
Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ vào cuối năm 1963 sau cuộc đảo chính của các tướng lãnh. Tuy vậy tình hình Việt Nam Cộng hòa vẫn không yên tĩnh.
Chính biến miền Trung chống Mỹ và Thiệu-Kỳ 1966: “Cuộc nội chiến trong một cuộc chiến tranh”
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, hai anh em Diệm - Nhu bị giết, thầy Trí Quang vẫn không trở về với vị trí bên lề của trường chính trị, mà tiếp tục vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình lên sinh mệnh chính trị của Việt Nam Cộng hòa bằng cách từ chối hậu thuẫn cho những chế độ quân nhân chủ trương chiến tranh điều hành quốc gia từ 1964 đến 1966 và chủ trương phải tái lập chế độ dân chủ cùng sớm vãn hồi hòa bình.
Trước việc Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam với việc trực tiếp đổ quân chiến đấu kể từ năm 1965, Phật giáo cũng không thể ngồi yên. Sau cuộc hội họp với Tổng thống Mỹ Johnson ở Honolulu vào đầu năm 1966, các tướng Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ muốn nhanh chóng tóm thu quyền hành về một mối để dễ cai trị với bàn tay sắt cũng như rảnh tay điều hành cuộc chiến theo ý đồ của người Mỹ. Cái gai trước mắt của họ là lực lượng Phật giáo miền Trung và Tư lệnh Vùng I, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, người hùng của cuộc đảo chính chống Diệm năm 1960.
Nội bộ tướng lãnh Sài Gòn lục đục tranh quyền, tướng Thi bị nhóm tướng lãnh Sài Gòn cách chức. Vụ bãi chức này chỉ là một cái cớ để Phật giáo tung ra cuộc đấu tranh mới, đòi các tướng lãnh đáp ứng yêu cầu chính đáng của nhân dân. Đó là lập lại các định chế dân chủ như soạn thảo hiến pháp, bầu quốc hội dân cử như đã hứa hẹn từ ngày lật đổ Ngô Đình Diệm. Binh lính Quân đoàn I hầu như đã đồng loạt nổi dậy, sát cánh cùng đồng bào phật tử chống lại chính quyền Sài Gòn. Cuộc biến động này được báo chí nước ngoài gọi là “Một cuộc nội chiến trong cuộc chiến tranh”!
Sài Gòn chuyển Thủy quân lục chiến ra sân bay Đà Nẵng, quyết dẹp tan cuộc binh biến. Các thành phố Đà Nẵng, Huế hầu như biến thành các căn cứ địa nổi dậy mới, với các đội sinh viên “Quyết tử”, quần chúng vũ trang sát cánh cùng binh lính nổi loạn, chuẩn bị sẵn sàng đánh trả quân Sài Gòn. Binh lính Quân đoàn I cũng quay nòng súng đại bác chĩa vào sân bay và căn cứ Mỹ. Thấy quân dân miền Trung làm dữ, tướng Nguyễn Cao Kỳ một mặt hứa hẹn sớm tổ chức bầu cử quốc hội, đưa cả tướng Thi ra xoa dịu tình hình. Nhưng mặt khác vẫn ráo riết tăng cường lực lượng đàn áp, có quân Mỹ hỗ trợ ngầm đàng sau.
Cuộc biến động miền Trung lần này có tác động phân chia lực lượng quốc gia đô thị làm thành hai phe rõ rệt. Trong hàng ngũ Phật giáo, nhóm chủ chiến Bắc di cư của Thượng tọa Thích Tâm Châu đứng hẳn về phía nội các chiến tranh Nguyễn Cao Kỳ. Đa số phật tử thì đứng về lập trường hòa bình nhưng cũng không mấy đồng nhất. Thượng tọa Thích Trí Quang nay lại xuất hiện, chủ trương tiến hành bầu cử quốc hội thể hiện được nguyện vọng của toàn dân. Hy vọng với đa số nằm trong quốc hội, Phật giáo sẽ nói lên được ý nguyện của nhân dân là đem lại chủ quyền và hòa bình cho Việt Nam.
.jpg)
Đấu tranh trên đường phố Sài Gòn, năm 1963
Về cuộc chính biến này, dư luận khách quan thời đó ghi nhận: Phật giáo không cộng sản, cũng không thân Mỹ. Sau vụ Ngô Đình Diệm, không ít người nghĩ rằng Phật giáo có thể là đồng minh của Mỹ trong công cuộc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bằng chế độ dân chủ, bằng xã hội công bằng, phát triển trong tự do, và đặc biệt bằng con đường hòa bình, hòa giải giữa hai ý thức hệ (tự do - cộng sản), giữa hai miền (Nam - Bắc), giữa hai thế giới (tư bản - cộng sản). Đại sứ Mỹ Cabot Lodge lúc đó có lẽ đã cố gắng thuyết phục thầy Trí Quang và Phật giáo đi theo con đường chiến tranh của mình. Nhưng Phật giáo kiên trì kêu gọi Mỹ ủng hộ nhân dân Việt Nam xây dựng chế độ dân chủ trong quan hệ đồng minh chứ không phải trong quan hệ thống trị - chư hầu. Cuộc giằng co thuyết phục - kêu gọi lẫn nhau kéo dài từ cuối năm 1963 đến cuối xuân 1966. Một mặt, người Mỹ tiếp tục đi tìm người hùng cho giải pháp chiến tranh, mặt khác Phật giáo kiên trì đấu tranh dân chủ và quyền dân tộc tự quyết theo con đường hòa bình và phương pháp bất bạo động. Xem ra hai con đường không thể nhập làm một trong cuộc đương đầu với lực lượng cách mạng ở miền Nam. Và cũng như phe cách mạng Việt Nam, Mỹ cùng cộng đồng Thiên Chúa giáo Việt Nam và quốc tế khẳng định chỉ có một con đường, nhưng ngược chiều: chiến tranh.Thầy Trí Quang và Phật giáo miền Trung lý luận rằng trong thế giới vô thường, đã có 1, ắt có 2, có 3. Như vậy là vào thời điểm này, trên thế giới này, trong đất nước này, Phật giáo là con đường thứ ba đó. Con đường thứ ba có sứ mệnh hóa giải sự ngược chiều sinh tử, hủy diệt dân tộc và nhân loại của hai con đường kia. Cuộc đấu tranh của Phật giáo từ chống độc tài Ngô Đình Diệm qua độc tài Nguyễn Khánh, độc tài Trần Văn Hương đến độc tài Kỳ-Thiệu-Mỹ là cả một cuộc hành trình. Đó là cuộc hành trình đầy khổ nạn đi giữa rất nhiều làn đạn.
Trong cuộc đương đầu với chế độ Ngô Đình Diệm, Phật giáo nhanh chóng nhận được sự đồng tình hiệp lực của tất cả phật tử và nhân dân miền Nam (quân đội, trí thức, sinh viên, học sinh, Đại Việt, Quốc Dân Đảng, Cao Đài, Hòa Hảo, ngoại trừ cộng đồng Thiên Chúa giáo). Phải mất một thời gian khá lâu sau khi Diệm đổ, thầy Trí Quang và Phật giáo mới nhận ra rằng tuy đồng hành, nhưng người Mỹ không là đồng minh trong các mục tiêu tự do và bình đẳng tôn giáo. Và nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy Mỹ loại trừ chế độ gia đình trị là bởi Ngô Đình Nhu dám đem chuyện hiệp thương với miền Bắc làm “chantage” (trả giá) với Mỹ.
Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân chủ sau Diệm, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống Thiệu-Kỳ lần này, Thượng tọa Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung gần như đơn độc: Phật giáo miền Nam (của Mai Thọ Truyền) đứng ngoài. Phật giáo miền Bắc di cư (của Thích Tâm Châu) ngả về phía Thiệu-Kỳ. Cao Đài, Hòa Hảo dửng dưng. Phật giáo quốc tế can ngăn, phủ nhận. Báo chí Mỹ và các thế lực Công giáo quốc tế chống phá quyết liệt. Các tướng trẻ trong quân đội, đảng phái, một bộ phận trí thức và sinh viên chống cộng ủng hộ chính phủ. Và người Mỹ từng bước hiện nguyên hình là cha nuôi, là ông chủ của Thiệu-Kỳ trong cuộc chiến tranh chống cộng và cuộc đánh phá viên đá cản đường Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung. Sau biến cố này, thầy Trí Quang bị vô hiệu hóa qua việc chính quyền Thiệu-Kỳ giam lỏng, cô lập ở Sài Gòn.
30-4-1975: “Thay người khác mà vác cờ trắng”!
Sự liên kết chính thức giữa tướng Dương Văn Minh và Thượng tọa Trí Quang diễn ra trong năm 1974. Khi tôi đặt thẳng vấn đề ông Dương Văn Minh mong muốn có sự ủng hộ công khai của thượng tọa trong một chủ trương đấu tranh cho hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc và trước hết là thay đổi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thì Thượng tọa Trí Quang trầm ngâm một lúc. Sau đó thượng tọa chậm rãi nói: “Ông Minh không phải là một người làm chính trị sắc bén. Nhưng ông là người cần thiết lúc này, trao cho ông ngọn cờ tập hợp cũng được”. Cách nói của Thượng tọa Trí Quang cho thấy việc chọn lựa ông Minh cầm ngọn cờ tập hợp để góp phần cùng lật đổ chính phủ Thiệu chưa phải là hoàn toàn ưng ý mà là một giải pháp thay thế, một chọn lựa tương đối tốt nhất bấy giờ. Về phần mình, tập Tự truyện của thầy Trí Quang có ghi về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa như sau:
Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai mảnh giấy báo cáo mật cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và nói ông không vụ lợi vì lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc trưởng là cùng, ông chỉ không nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như thế là ông làm như lời thầy Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác cờ trắng! Sau đó mấy tháng, tôi trả lời một thầy Phật giáo cấp tỉnh, rằng nay Phật giáo Việt Nam bước qua một giai đoạn khác”.
Khi quân Giải phóng pháo kích dồn dập sân bay Tân Sơn Nhất khuya 29-4-1975, tôi nghĩ rằng cuộc chiến đấu cuối cùng đã bắt đầu. Lần gặp sau cùng, Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt hoạt động trong cụm A10, An ninh T4 Giải phóng) gợi ý rằng: “Chỉ có thuyết phục, tác động những người cầm đầu chính quyền Sài Gòn buông súng trên tinh thần hòa hợp hòa giải mới mong tránh được đổ máu và tàn phá”. Nhóm sinh viên cùng binh lính, sĩ quan trẻ phản chiến lấy Đại học Phật giáo Vạn Hạnh làm trụ sở đã chuẩn bị sẵn sàng. Dự kiến nếu còn chiến đấu dằng dai thì phải hình thành ngay các “Ủy ban hòa hợp hòa giải” lấy các chùa làm cơ sở. Nghe nói nhiều nhóm vũ trang phản động vẫn toan tính trụ lại chống cự và phía quân Giải phóng thì cũng quyết tâm sớm dứt điểm cuộc chiến, phải trả giá cao nếu cần. Nhưng ngày hòa bình và thống nhất đất nước 30-4-1975 sau đó đã diễn ra êm thắm, Sài Gòn đã được giải phóng, không đổ nát và đổ máu.
Thượng tọa Thích Trí Quang, trước hết là “một nhà tu yêu nước”
Nhân vật Trí Quang từng là đối tượng gây tranh luận nhiều năm trong chiến tranh và cả sau chiến tranh, cả ở trong nước lẫn ngoài nước. Về vấn đề này, theo tôi thì nhà báo Lý Quí Chung có nhận định khá khách quan. Anh viết “Trong hoạt động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963, Thượng tọa Trí Quang cũng đã từng bị tố cáo là một phần tử cộng sản. Nhưng sự kiện xảy ra tại chùa Xá Lợi đêm 21-8-1963 đã làm đảo lộn sự đánh giá về Thượng tọa Trí Quang trước đó. Trong cuộc tranh đấu của Phật giáo chống chế độ Diệm, chùa Xá Lợi được chọn làm ‘tổng hành dinh’ của Phật giáo. Thượng tọa Trí Quang chỉ huy cuộc đấu tranh từ đây. Tại chùa Xá Lợi luôn có hàng ngàn nhà sư, ni cô, sinh viên đấu tranh và cả dân thường ở đó ngày đêm. Đêm 21-8-1963, Ngô Đình Nhu ra lệnh tấn công chùa Xá Lợi. Rất nhiều người bị bắt, bị thương, bị mất tích và cả bị giết chết trong cuộc đàn áp. Nhưng Ngô Đình Nhu không đạt được mục đích chính của mình là bắt Thượng tọa Trí Quang: ông đã biến mất vào phút chót. Sau đó báo chí Mỹ mới khám phá ra rằng Thượng tọa Trí Quang đã vào “tị nạn chính trị” trong Đại sứ quán Mỹ. Sự kiện này đã gián tiếp đính chính Thượng tọa Trí Quang không phải là cộng sản. Và sau đó lại có lời đồn rằng Thượng tọa Trí Quang là người của... CIA!

Hòa thượng Thích Trí Quang (bìa trái), linh hồn cuộc đấu tranh của Phật giáo
Các tài liệu về Việt Nam chưa bao giờ nói rõ gốc tích của vị thượng tọa này. Theo nhà báo Mỹ Stanley Karnow, Thích Trí Quang từng bị người Pháp bắt giam vì tội làm cộng sản trước 1954 khi ông còn là một thanh niên. Đi tu, ông được đưa đi học ở Tích Lan (Sri Lanka) và sau đó trở về đi thuyết pháp khắp Việt Nam. Thượng tọa Trí Quang có mặt tại Huế từ tháng 5-1963 và trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Phật giáo nhằm lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Theo lệnh của Washington, đại sứ Mỹ Frederick Nolting khuyên ông Diệm nên hòa giải với Thượng tọa Trí Quang, nhưng ông Diệm từ chối, cho rằng biến động ở Huế có bàn tay cộng sản nhúng vào. Nhưng sau đó trong cuộc phản công của bà Ngô Đình Nhu ngày 7-6-1963, bà lại tố cáo Phật giáo đấu tranh có sự giật dây của người Mỹ ở phía sau. Gián tiếp bà tố cáo Thượng tọa Trí Quang là người của Mỹ…
Thật sự Thích Trí Quang là người của ai? Lúc đó tôi không có đủ điều kiện trả lời câu hỏi này, nhưng với tôi, Thượng tọa Trí Quang trước hết là một nhà tu yêu nước”.
Trước khi kết thúc bài viết, xin ghi lại câu chuyện này: Khi thực dân Pháp bị đánh bại tại Điện Biên Phủ và phải công nhận nền độc lập của một nước Việt Nam thống nhất qua Hiệp định Genève, thầy Trí Quang là một trong những vị lãnh tụ Phật giáo thời kỳ dấn thân trong Phong trào Phật giáo chấn hưng, đã nói với các đệ tử của ông rằng là: “Trước khi trở thành phật tử, tất cả chúng ta đã là người Việt Nam”. Trong Tứ ân, tôn chỉ của người phật tử thời kỳ chấn hưng, thì ơn Cha mẹ, ơn Tổ quốc đứng hàng đầu, sau đó mới đến ơn Tam bảo, ơn Chúng sinh. Như thế, con đường đi tới giải thoát - niết bàn của mỗi Phật giáo đồ Việt Nam nhất thiết phải kinh qua một chặng đường là đất nước này, dân tộc này và cuộc đời này. Phải chăng đó là con đường thầy Trí Quang đã đi qua. Sau 1975, đất nước đã có hòa bình, độc lập và thống nhất. Thầy Trí Quang quay về sống yên lặng tại Sài Gòn, ở chùa Ấn Quang và một ngôi chùa ở Bình Thạnh. Sau này thầy quay về tĩnh tu tại nơi hoạt động cũ của mình và là nơi phát khởi cuộc đấu tranh chống Ngô Đình Diệm năm 1963 là chùa Từ Đàm ở Huế. Bên cạnh việc san dịch kinh sách, thầy cũng hoàn tất một hồi ký đặc biệt về đời mình và cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam(*). Thầy Trí Quang đã viên tịch ngày 8-11-2019 tại Huế, hưởng thọ 96 tuổi.
Hà Nội, 2019
(*) Trí Quang tự truyện, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2011.