Hôm thứ hai ngày 21-8-1911, Viện bảo tàng Louvre nổi tiếng cũng như các viện nghệ thuật lớn khác ở Paris đều đóng cửa. Ở bên trong tòa nhà chỉ còn lại những chuyên gia phục chế và một số nhân viên quét dọn các phòng.
Vincenzo Peruggia, họa sĩ trang trí, 30 tuổi, người Ý, mặc chiếc áo bờ lu đồng phục, đủng đỉnh đi dạo từ phòng này qua phòng khác. Y mới làm trong viện bảo tàng này ít lâu, nhưng hầu như đã thuộc lòng tất cả các bức tranh được trưng bày ở đây. Theo thói quen nghề nghiệp, y ngắm nghía những họa phẩm treo trên tường để tìm ra những chỗ sai sót. Kỳ thật, hôm đó y quan tâm đến một việc khác. Y theo dõi những nhân viên phục vụ và chờ đợi khi nào họ rời khỏi phòng trưng bày, nơi treo bức tranh Mona Lisa (hay La Joconde). Của đáng tội, Vincenzo nhận cái nhiệm vụ không mấy phiền toái này cốt để tìm trong số hàng trăm họa phẩm khổ nhỏ cái bức tranh có giá trị cao nhất. Từ lâu, y đã để ý tới Mona Lisa. Nụ cười tủm tỉm đầy sức mê hoặc đã làm y say đắm bởi cái vẻ bí ẩn khiến khách thập phương chiêm ngưỡng không biết chán. Tác giả bức tranh đó đã truyền được vào bức chân dung ấy sự trong trắng và vẻ dịu dàng của người phụ nữ. Báo chí đã ca ngợi rằng đó là kiệt tác độc nhất vô nhị của nghệ thuật thế giới mà giá không dưới một triệu đô la.

Chính những thông tin tương tự như vậy đã thúc đẩy Vincenzo và những kẻ đồng mưu là Ive Sandro và tên đại bợm chuyên nghiệp Eduardo là kẻ đã từng tiến hành những vụ trộm tương tự, đánh cắp bức tranh Mona Lisa. Chúng đã đến viện bảo tàng theo một định kỳ nhất định để quan sát kỹ bức tranh. Treo trước mặt chúng là một bức chân dung lồng trong chiếc khung gỗ có chạm trổ được phủ một lớp đồng, khổ 70x53cm. Nhưng bức tranh đó quả thực có sức thôi miên mãnh liệt. Bởi thế bộ ba tòng phạm cho rằng việc bán họa phẩm ấy nếu đem lại không phải bạc triệu thì ít ra cũng là một món tiền không nhỏ. Và nếu như cuộn bức tranh lại và giấu dưới tấm áo bờ lu rồi mặc áo khoác phủ lên thì có thể đem ra ngoài không khó khăn gì.
Ngày hôm ấy Vincenzo thấy phấn chấn lạ thường, y đứng ngắm nghía tác phẩm của người đồng hương vĩ đại. Chung quanh chẳng có điều gì đáng ngờ vực. Phòng tranh không một bóng người. Toàn bộ thao tác tháo bức tranh ra khỏi khung và cuộn lại - y làm trong nháy mắt. Chiếc khung y dựng vào một góc xa. Bức tranh đã được giấu dưới tấm áo bờ lu. Y thong thả quay ra, thay quần áo, chào người gác cửa rồi ung dung bước ra ngoài phố, thở phào nhẹ nhõm. Mọi chuyện đều diễn ra trôi chảy. Y quặt vào một góc phố và trèo lên một cỗ xe ngựa đã trực sẵn, trên đó Ive Sandro và Eduardo đang ngồi sốt ruột chờ đợi.
- Thế nào, ổn chứ?
- cả hai đồng thanh hỏi.
- Rồi - y khẽ đáp, chính y cũng không dám tin vào điều mình đã làm được.
- Vậy thì tếch thôi! - Eduardo quát người xà ích.
Đôi ngựa vọt lên và cỗ xe lao ra phía bờ sông Seine. Họ còn một ngày để phòng xa. Viện bảo tàng Louvre đóng cửa, không ai biết việc mất tranh, chuyện náo động sẽ bắt đầu vào hôm thứ ba, giám đốc viện bảo tàng sẽ gọi cảnh sát tới và tổ chức việc truy đuổi. Nhưng sẽ tìm ở đâu? Lúc đầu, tất yếu là ở Paris. Nhưng vào lúc đó y cùng bạn bè đã cao chạy xa bay khỏi thành phố rồi. Sau đó có thể đem bán bức tranh ở nước Ý hay ở Đức tùy thích…
Việc mất bức tranh được phát hiện ngay hôm sau, hôm thứ ba. Kẻ đánh cắp Mona Lisa đã nhanh chóng được xác định - đó là một nhân viên của viện bảo tàng, tay họa sĩ trang trí Vincenzo đã biến mất. Nhưng làm cách nào để lần ra dấu vết của hắn? Y còn ở Paris hay đã rời khỏi thành phố này? Liệu y có ẩn náu tại quê hương mình ở Ý hay không? Y hành động một mình hay cùng với những kẻ tòng phạm?

Giám đốc Viện bảo tàng Louvre Pijaulet đề nghị cảnh sát tổ chức cuộc truy lùng tội phạm trên quy mô rộng rãi, không chỉ ở Paris và trên lãnh thổ nước Pháp mà còn ở ngoài biên giới nước này. Nhiều họa sĩ, nhiều nhà phục chế được dò hỏi, tất cả các viện bảo tàng lớn và các nhà sưu tầm tư nhân đều được cảnh báo. Ngày tháng cứ trôi qua, nhưng tung tích bọn ăn trộm tranh vẫn bặt vô âm tín. Từ Đức, Ý, từ Tây Ban Nha không có tin tức gì về bức tranh bị đánh cắp. Báo chí nhất loạt miêu tả tỉ mỉ vụ mất trộm này. Trong chốc lát, họa phẩm đó đã trở thành lừng danh khắp thế giới. Trên báo chí đã xuất hiện ảnh của tên trộm Vincenzo và ảnh của bức tranh bị đánh cắp. Người ta đặt tiền thưởng cho ai tìm ra tung tích của kẻ trộm tranh.
Chỉ mới một ngày, tác phẩm của Leonardo da Vinci đã trở thành bức tranh nổi tiếng nhất của Viện bảo tàng Louvre. Hàng đoàn người đến đây cốt để tò mò xem cái vị trí của bức tranh bị mất. Những chuỗi ngày chờ đợi khắc khoải trôi qua. Cảnh sát vẫn không ngừng tìm kiếm. Những tấm ảnh Vincenzo ướt sũng dưới mưa thu. Không ai còn đặc biệt quan tâm đến phần thưởng hứa hẹn nữa. Tất nhiên có những hồi chuông điện thoại, những bức thư gửi đến, song không một giả thuyết nào đưa ra, không một điều phỏng đoán nào được xác nhận.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện về vụ đánh cắp bức tranh của Leonardo da Vinci đã chìm vào quên lãng, mặc dầu cảnh sát vẫn tiếp tục lùng sục Mona Lisa ở châu Âu. Họ không mảy may nghi ngờ rằng kiệt tác này đã được đưa sang bên kia đại dương. Từ tháng 8-1911, nó đã nằm trên đất Mỹ.
Những kẻ trộm tranh qua báo chí được biết chúng đang bị truy lùng khắp châu Âu, và chúng đã quyết định đưa họa phẩm vượt đại dương. Hơn nữa, tiền của chúng đã cạn. Đến New York (Mỹ), chúng bắt đầu đi khảo giá. Chính ở đây, Vincenzo đã nảy ra một ý định tuyệt vời đã mang lại cho cả nhóm một khoản tiền kha khá: phải chăng nên chép lại Mona Lisa rồi đem bán coi như là nguyên tác? Hay, tốt nhất là chuẩn bị mấy bản sao? Ive Sandro và Vincenzo nhận nhiệm vụ chép tranh. Chúng thuê một xưởng họa nhỏ ở Broadway và đêm ngày miệt mài làm việc. Công việc này không dễ vì cần phải chép những bức tranh cho thật giống nhau. Còn Eduardo thì đảm nhiệm việc tìm khách mua.
Và đã tìm ra được. Không phải một gã khờ khạo mà là một tay rất sành hội họa, một nhà sưu tầm, chủ một phòng tranh riêng, nhà tỉ phú John Morgan. Thế là cá đã cắn câu. Eduardo cho biết sẽ sẵn sàng bán cho ông ta bức tranh của Leonardo da Vinci được đánh cắp từ Viện bảo tàng Louvre, bức tranh mà cảnh sát đang truy lùng khắp châu Âu. Y cho xem những mẩu tin cắt từ các báo. Morgan cũng đã nghe phong thanh về câu chuyện đó, lúc đầu không tin, nhưng sau một thời gian đắn đo suy nghĩ, ông ta đồng ý mua với giá 300.000 USD. Ngày hôm sau bức tranh được trao cho chủ mới và mỗi tên trộm kiếm được 100.000 USD. Nhà sưu tầm hí hửng vì mua được của quý với giá rẻ bất ngờ. Ông ta không thể biết rằng 5 “nguyên bản” như vậy cũng được bán cho các nhà sưu tầm khác. Tổng cộng nhóm trộm qua vụ làm tranh giả vớ được gần 2 triệu đô la - một món tiền khổng lồ đối với thời điểm bấy giờ. Và tất cả những ông chủ của bức tranh Mona Lisa “bị đánh cắp”, lẽ tất nhiên, đều im như thóc.
Nhưng điều đáng chú ý nhất là nguyên bản vẫn chưa bán được. Thoạt tiên không có người mua vì Vincenzo đặt giá quá cao. Sau đó y quyết định không bán bức tranh nữa bởi lẽ y cho mình là chủ sở hữu có toàn quyền đối với bảo vật này. Chính điều đó đã làm dấy lên sự bất bình ở những kẻ tòng phạm với y. Những cuộc cãi lộn bắt đầu, không ai thích chép tranh nữa. Thấy vậy, Vincenzo bèn nghĩ cách đánh bài chuồn khỏi đồng bọn và đem theo nguyên tác trở về Ý.
Hơn hai năm, Mona Lisa đi chu du từ châu Âu sang Mỹ rồi lại quay trở về quê hương. Vincenzo lại thấy cạn túi, y cho rằng thời gian qua cũng đủ để mọi người quên lãng y. Y dọn đến ở Como, một tỉnh nằm ở phía Bắc nước Ý và tại đây, y quyết định bán bức tranh. Y viết một bức thư gửi Geri, một nhà sưu tầm tranh nổi tiếng ở Florence (Ý), ngỏ lời muốn bán cho ông ta bức Mona Lisa đích thực với giá nửa triệu franc - một món tiền rất lớn vào thời điểm đó, và ký tên là họa sĩ Leonardi ở Paris. Geri từng biết vụ mất bức tranh của Leonardo da Vinci ở Viện bảo tàng Louvre nên lập tức sinh nghi và trình cảnh sát bức thư ấy. Cảnh sát đề nghị ông tiếp tục trò chơi với Leonardi và khuyên nên dùng kế điệu hổ ly sơn: mời Leonardi đến Florence để cho xem bức tranh. Geri bèn viết thư trả lời, đồng ý mua tác phẩm nổi tiếng với số tiền quy định và ngỏ lời mời họa sĩ đến Florence. Vincenzo hí hửng cho rằng mình đã vớ đúng ông khách sộp liền đến ngay Florence và nghỉ tại khách sạn Tripoli.
Đến dự buổi tiếp xúc với “họa sĩ từ Paris tới” ở khách sạn Tripoli, Geri mời thêm một “chuyên gia”, trên thực tế là bộ trưởng nghệ thuật của Ý và Corado Risi, một người rất sành về hội họa và rất am hiểu sáng tác của Leonardo da Vinci. Trong phòng bên cạnh, cảnh sát đã mai phục sẵn sàng. Chính Risi khi nhìn thấy bức tranh trong tay Leonardi liền thốt lên một câu vốn là mật hiệu đã được quy ước từ trước: “Không còn nghi ngờ gì nữa! Đích thị là bản gốc rồi!”. Cảnh sát liền xông vào phòng, công bố lệnh bắt họa sĩ Leonardi về tội đánh cắp bức tranh của Leonardo da Vinci ở Viện bảo tàng Louvre vào ngày 21-8-1911. Vincenzo đã không ngờ tình hình lại xoay chuyển như vậy, y chưa kịp mở mồm thì lập tức đã bị tra tay vào còng số 8.
Ngày 20-12-1913, một thông báo đặc biệt về hiện vật được tìm thấy đã nằm trên bàn các thám tử Pháp. Tin này được lập tức báo cho giám đốc Viện bảo tàng Louvre Pijaulet. Ông ta không dám tin điều đó và đích thân dẫn đầu một đoàn đại biểu đến Florence.
Toàn bộ sự việc còn lại chỉ là công việc kỹ thuật. Pijaulet và các đồng nghiệp của ông đã xác nhận tính đích thực của bức tranh Mona Lisa. Đó chính là nguyên bản bị đánh cắp trong Viện bảo tàng Louvre. Khi cảnh sát thẩm vấn Vincenzo, thì y cố thanh minh cho hành động của mình bằng cách khẳng định rằng y không đánh cắp, rằng mục đích của y không phải là kiếm chác mà là mong muốn trả lại cho nhân dân Ý của mình tác phẩm của người đồng hương vĩ đại mà hoàng đế Napoléon, kẻ xâm lăng vốn bị căm ghét, đã mang về Pháp làm chiến lợi phẩm. Y nói rằng nếu như kẻ đi nô dịch các dân tộc và tên kẻ cướp Napoléon được coi là anh hùng, thì y, Vincenzo, không thể là tội phạm.

Song các thẩm phán không coi lời giải thích của y là đủ cơ sở để thanh minh. Bồi thẩm đoàn đều nhất trí cho rằng y phạm tội. Và Vincenzo bị đưa vào nhà lao, còn bức tranh thì được hoàn lại cho Viện bảo tàng Louvre. Nó lại được treo đúng vị trí của nó cách đây hai năm. Từ lúc đó, để bảo vệ bức tranh, người ta đã áp dụng những biện pháp đặc biệt: nó được che chắn bởi một tấm kính dày có gắn tín hiệu báo động.