Mẹ tôi ra đi đã gần hai tháng rồi. Bây giờ tôi mới có dịp bình tĩnh, bày tỏ lòng biết ơn của mình, của gia đình mình và của cả dòng họ về sự tận tình, chu đáo của các cơ quan, đoàn thể, các ông bà, cô bác, các anh chị em xa gần đã đến chia buồn, hoặc chia buồn qua tin nhắn, Facebook.
Thực tình, mẹ tôi chẳng có bệnh tật gì cả. Huyết áp cụ đo lúc nào cũng 120/80, còn ổn định hơn cả các con, các cháu. Có lẽ cụ khỏe vì ít ăn thịt. Mâm cơm xanh lè toàn rau quả vườn nhà. Những năm bao cấp, nhà tôi quanh năm đói. Sau này khá hơn, con cháu có của ăn của để, nhiều đứa đề huề, giàu có, về thăm, biếu cụ tiền, ít, dăm ba trăm thì cụ nhận, nhưng chẳng tiêu một đồng nào, cứ tích cóp lại, cho các cháu ở làng vay, rồi chuyển thành vàng, cho hết cháu chắt nội ngoại. Có lẽ cụ khỏe, sống thọ, nhờ ăn uống kham khổ, lại ăn cũng chỉ vừa đủ, không có bữa nào cụ ăn đến no bụng. Cụ bảo: “Tao đói quen rồi. Ăn no khổ lắm. Bụng ấm ách khó chịu, đêm lại không ngủ được. Vật vã như giời đày”. Cụ vẫn sống như thời chị Dậu, anh Pha. Ai bất chợt ghé thăm gia đình tôi ở quê, chứng kiến mẹ tôi sống, sẽ kết tội tôi với ông anh cả tôi, nhà thơ Trần Nhuận Minh, tệ bạc với mẹ. Các con đứa nào cũng nhà cao cửa rộng ở thành phố mà đọa đầy mẹ như vậy. Trông bộ ấm chén uống nước hằng ngày cũng đã kinh. Sứt vòi, mẻ miệng, mỗi cái một kích cỡ. Cóc cáy, nhếch nhác. Bác Minh đã thay cho bà bộ ấm chén Nhật, bát đĩa gốm sứ Minh Long, cả cái mâm nhôm sáng loáng. Mâm bà dùng là mâm gỗ sứt sẹo được chia từ hồi Cải cách ruộng đất. Bác Minh và tôi vứt hết ra bờ tre. Nhưng khi con cháu đi rồi, bà cất hết bát đũa, ấm chén, mâm chậu sắm mới vào tủ, rồi ra bờ tre nhặt lại những vật dụng cũ về dùng. Đối với bà, đấy không phải những vật dụng vô tri vô giác, chúng là bầu bạn thủy chung, gắn bó với bà từ thời đói khổ. Bây giờ khá giả rồi, thì lại “có mới nới cũ”, hất chúng ra ngoài bờ rào. Con người tệ bạc, bất nhẫn hơn cả đồ vật. Bà khóc. Rồi bà lụi cụi ra bờ tre, bờ rào đón hết chúng về.
Mẹ tôi thế đấy. Thoạt đầu, tôi tưởng mẹ chỉ dạy tôi yêu thiên nhiên, cây cỏ, đồ vật, con vật trong nhà. Nhưng không, bà yêu thương chúng thật. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn có một bài viết về bà. Rất nhiều người đã viết về bà, nhưng chị Nhàn hiểu bà nhất, viết đúng về bà nhất. Bà là người thất học. Bà chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Các cụ xưa có quan niệm con gái mà biết chữ thì chỉ có viết thư cho giai nên đã là con gái thì không cần biết chữ. Tất cả các cụ bà ở làng tôi ở lứa tuổi bà đều không biết chữ. Nhưng bà lại thuộc Truyện Kiều, rồi chuyện Thạch Sanh, Hoàng Trìu, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa. Học truyền khẩu từ bà ngoại tôi cũng là một phụ nữ thất học. Bà ngoại tôi lại học cụ tôi, là một bà đồng mù mắt bẩm sinh. Cụ mở Phủ tại nhà rồi làm thêm cả nghề xem bói. Cụ bói rất linh nên có tiếng trong vùng. Cụ cũng thuộc Truyện Kiều và các truyện Nôm khuyết danh từ nhỏ. Rồi sau này, khi có cuốn Kiều của con, mẹ tôi lần theo từng câu thơ đã thuộc vẹt mà nhận ra mặt chữ. Rồi dần dần bà biết đọc. Đọc rộng ra các cuốn sách khác như thơ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, thơ của hai cậu con trai. Tôi tiết lộ với chị Nhàn: Chính cụ Nguyễn Du dạy mẹ em biết chữ đấy. Nhưng bà chỉ biết chữ in thôi. Nếu em muốn thư cho mẹ thì phải viết chữ in. Viết chữ thường, bà không đọc được.
Thực tình, bà rất sợ, không muốn các con đi theo nghiệp chữ nghĩa, đã nghèo khổ lại còn hay chửi nhau (và sau này lại chửi trên báo chí, trên không gian mạng) nên tởm lợm lắm. Hôm nhà thơ Xuân Diệu về, ông về vào nửa đêm, lại mượn cây đèn, ra soi từng cây trầu, cây bưởi, cây na. “Thấy bác ấy kiểm tra, u sợ quá, suốt đêm không ngủ được. Thế có làm sao không hả con? Thôi có thế nào thì cứ nói như thế, đừng đặt điều thêm ra mà phải tội. Mang tiếng ăn không nói có. Mà thôi, đừng có thơ phú gì nữa. U đã bảo rồi. Cứ đi cày như bố mày lại yên”. Bà không muốn con dính đến thơ phú, nhưng rồi chính bà lại dẫn các con đến với thơ ca. Trong 4 con của bà thì có 3 người làm thơ: bác Minh, tôi và Giang, con gái út của bà sinh năm 1962. Thực ra, lúc đầu, bà chỉ muốn dạy các con làm người tử tế. Bà dạy các con thuộc Truyện Kiều cũng chỉ muốn các con biết thương cô Kiều. Thương những người bất hạnh, yếu đuối. Khi bà ngoại mất, bà bảo tôi: “Bà chết rồi. Con có thấy cây cối nó buồn không. Con phải ra đeo tang cho cây đi. Không nó chết đấy”. Rồi bà xé nhỏ cái khăn tang ra thành hàng trăm mảnh để tôi - cậu bé 6 tuổi ra buộc từng miếng vải trắng lên những rảnh cây. Ngày bà ngoại mất, khu vườn nhà tôi trắng xóa màu tang. Rồi ngày Tết, bà lại bảo: “Ngày Tết, mình có áo mới thì cây cối nó cũng phải có áo mới chứ. Không có, nó buồn đấy”. Bà pha một thùng nước vôi loãng, buộc túm cái chổi lại rồi sai con ra vườn quét lên từng gốc cây. Hôm sau, nước vôi khô, cả khu vườn sáng rực một màu trắng đồng phục. Rồi có tối, bà ngoại (hồi bà chưa mất) sang chơi, mẹ tôi lại bảo con ra vườn hái trầu cho bà. Bà bảo, con phải vặn to ngọn đèn lên, để cây trầu nó nhận ra chủ chứ không phải thằng ăn trộm, rồi con phải đọc mấy câu này đánh thức nó dậy đã rồi mới được hái: “Trẩu trẩu trầu trầu - Mày làm chúa tao - Tao làm chúa mày - Tao không hái ngày - Thì tao hái đêm - Thức dậy cho tao hái”. Bà không ngờ con trai bà lại có một bài thơ về đánh thức trầu, với những câu chữ khác: “Đã ngủ rồi hả trầu - Tao đã đi ngủ đâu - Mà trầu mày đã ngủ - Bà tao vừa đến đó - Muốn xin mấy lá trầu - Tao không phải ai đâu - Đánh thức mày để hái - Trầu ơi hãy tỉnh lại - Mở mắt xanh ra nào - Lá nào muốn cho tao - Thì mày chìa ra nhé - Tay tao hái rất nhẹ - Không làm mày đau đâu - Đã dậy chưa hả trầu - Tao hái vài lá nhé - Cho bà và cho mẹ - Đừng lụi đi trầu ơi!”. Trong mắt con bà, cây cối trong vườn hay con gà, con chó, cũng đều có tâm trạng, tình cảm như những con người. Các con và cả bà cũng đều không hề biết đó là phép nhân hóa trong nghệ thuật. Bà có biết gì về nghệ thuật đâu. Bà chỉ muốn dạy con làm một người tử tế. Mãi sau này, tôi mới hiểu được mẹ mình, khi anh Minh có đứa con đầu lòng, bà dặn: “Các con phải dạy trẻ con nó biết yêu thương cây cối và những con vật nuôi trong nhà. Một đứa trẻ bẻ một cây non mới trồng, dùng nỏ cao su bắn chết con chim đang bay hay vụt què chân con gà, con chó thì rồi sau này lớn lên, nó cũng sẽ làm điều ác độc với con người”. Bà còn bảo: “Chúng mày phải đặc biệt chú ý đến đứa con đầu. Đứa đầu mà giỏi, tử tế thì những đứa sau cũng sẽ tử tế. Đứa đầu mà hư hỏng thì rồi sẽ hư hỏng hết”. Tôi không biết bố mẹ tôi đã “đầu tư” cho đứa con cả của ông bà như thế nào. Nhưng bác Minh quả là một tấm gương sáng đối với chúng tôi và trong ứng xử thường là luôn chu đáo, tận tình, đàng hoàng và minh bạch. Có phần còn lại của con cháu nhà Nho. Bác có nghị lực lớn để vượt qua những nỗi cay đắng nhọc nhằn của cõi đời dâu bể này. Tôi sẽ nói kỹ hơn chuyện ấy trong cuốn hồi ký mà tôi đang viết cho con. Chỉ viết riêng cho con đọc thôi.
Thuở ấu thơ, sống với mẹ, tôi được tắm trong bầu khí quyển cổ tích. Chuyện nào mẹ kể cũng như chuyện cổ tích. Có những tối, cả hai mẹ con nằm trong cái nong phơi lúa, nhìn lên bầu trời, ngắm các vì sao. Mẹ bảo sao là đèn trời. Đêm đêm các nàng tiên thường bay đi thắp. “Thế con có thể nhìn thấy Tiên không?”. “Có, nếu con có được đức tính kiên trì”. Thế là tôi, cái cậu bé sáu tuổi cứ đăm đăm ngắm cái Thiên đường của mẹ mãi ở trên cao. Nhưng chẳng thấy cô Tiên nào. Chỉ có những dải mây trắng, bay phơi phới như những tà áo lụa. Bầu trời đang từ xanh lam, chuyển dần sang màu tím sẫm. Thế rồi mỏi mắt quá, tôi ngủ thiếp đi. Khi có tiếng gọi của mẹ, tôi bừng tỉnh dậy thì bầu trời đã đặc sao. Tôi thấy xung quanh tôi cũng đầy sao. “Con chẳng thấy cô Tiên nào thắp đèn cả mẹ ạ”. “Các cô thắp khi con ngủ đấy. Con không thấy vì con không có đủ sự kiên trì. Các cô Tiên khôn lắm. Các cô ấy hay đợi lúc người trần gian không để ý là thắp đèn luôn. Con phải rèn mình để có được sự kiên nhẫn. Không có lòng kiên nhẫn thì không làm được việc gì cả, ngay cả việc rất đơn giản là nằm chơi ngắm các cô Tiên”. Sau này, tôi có dịp bay lên bầu trời, tôi càng thấy thương mẹ: “Mẹ ơi! - Con tin là mẹ nói thật - Nhưng lên đây, con chỉ gặp - Chóp những đám mây thấp lúp xúp - Bầu trời trống trơn - Như cánh đồng làng ta sau vụ gặt - Khắp nơi ngổn ngang những đống khói hun chuột - Nhưng hùng vĩ hơn mọi cánh đồng nào - Tuy nhiên thế, mẹ ơi vẫn chẳng phải cánh đồng đâu - Bởi không có tà áo nâu và tấm lưng còng của mẹ… Con nhìn ra vòm xanh - Bỗng thấy những ngôi sao đi lang thang như hạt gạo giữa trời - Hạt nào cũng sáng và đẹp - Nhưng chỉ hạt gạo mẹ sàng trên nền đất mới hiểu được mẹ - Mới nuôi con thành một chàng trai - Bay lên bầu trời…”.
Hóa ra cái Thiên đường của bà ở trên cao chỉ là hư ảo. Bà dựng ra cõi ảo ấy không phải chỉ để dạy con, nuôi dưỡng tâm hồn con, mà còn là cõi thiêng để chính bà nương tựa, để bà có được sức lực vượt qua chốn đầm lầy, bụi bặm: “Từ đỉnh cao này: - Nhìn về mặt đất - Bỗng con sửng sốt - Lại thấy một vòm xanh thăm thẳm của bầu trời - Mây trắng đi lững thững dưới kia - Như những cái nấm lơ lửng - Nhưng con biết đằng sau màu mây ấy - Là một Thiên đường có thật - Ở đấy có ngôi nhà gianh vách trát đất - Là lâu đài của mẹ con mình…”.
*
Từ chiều 23 Tết năm 2021, sau khi tiễn ông Táo về trời, mẹ tôi đã nói với bác Minh: “Vài hôm nữa, tao sẽ đi đấy!”. Mẹ tôi thông báo cho chúng tôi biết những ai nợ bà từ vài triệu đến vài chục triệu, thậm chí đến cả trăm triệu. Bà bảo thôi, tao xóa nợ cho họ, họ có gì mà trả. Đến tiền mua rau ăn còn chẳng có thì có tiền đâu mà trả nợ. Chúng mày nói với họ thế và sau này, không được kể công, cũng không được nhắc đến các khoản nợ đó để làm cho họ khổ tâm. Số tiền còn lại, cả cái khuyên tai bằng bạc, bà tích cóp từ thời nảo thời nào, bà nhờ chuyển thành một số chỉ vàng chia hết cho các cháu nội ngoại. Bà bảo cũng là tiền của các con và bè bạn các con cho mẹ thôi, mẹ chẳng phải ăn tiêu gì. Có gì cái Bình nó lo cho cả rồi. Tôi cười xuế xóa: “U không chết được đâu. U phải sống 10 năm nữa”. “Không! Tao chỉ cố gắng để anh em chúng mày không mất Tết thôi. Đi ngày nào, u sẽ chọn…”.
Ngày mùng 2 Tết, bác Minh ra Quảng Ninh. Bà bảo, ra làm gì, tao sẽ đi đấy. Bác Minh bảo con có việc mà. Xong rồi con lại về. Bà bảo ừ thì đi, rồi phải về ngay đấy. Bác Minh điện sẽ về ngày mùng 6, cô Giang điện bảo, bà khỏe, giáp ngày giỗ họ (13 tháng giêng) anh về cũng được. Ngày 10 Tết, bà thấy đau người, bảo cô Giang nấu cháo và gọi bác Minh về. Bà bảo cô Bình chuyển bà vào nằm ở gian trong, cái gian hẹp, có cửa vào gian bếp. Bố tôi cũng trút hơi thở cuối cùng ở gian đó, cách đây 8 năm, khi ông ở tuổi 93. Mẹ tôi còn dặn, khi u mất, các con đốt cái giường đơn u nằm này đi, giữ lại cái giường đôi ở gian ngoài cho u. Cái giường ấy nó “sống” với tao đã mấy chục năm rồi đấy. Rồi mẹ tôi còn dặn: Khi u chết thì cứ lặng lẽ đưa u đi thôi. Cũng đừng có hoa hoét gì nhé. Nhiều hoa, dân làng người ta ghét cho đấy. Còn mọi người, ai biết thì đến, nếu có ai phúng thì các con ghi lại, chép ra làm mấy bản, mỗi đứa giữ một bản, rồi khi họ ốm đau, hiếu hỉ, mình đến trả nghĩa, nhớ phải cao hơn hoặc chí ít cũng bằng họ chứ không được thấp hơn tấm lòng họ đối với mình. Ấy là những ai biết, họ đến, nếu ai không đến được thì đừng trách người ta. Nghe nói bây giờ đang có dịch hạch gì đấy.

Mẹ tôi trút hơi thở cuối cùng vào 8 giờ 43 phút ngày 13 Tết, thọ 102 tuổi, đúng vào ngày Hợp tế của dòng họ Trần Điền Trì 13 tháng giêng hằng năm. Chiều hôm trước, cháu Trần Minh Tuấn, trưởng Hội đồng Dòng họ từ Hà Nội về, đến thăm, bà còn bảo: “Chúc mừng nhé. Dòng họ bây giờ lên quốc gia rồi”. Ấy là bà nói: Phần mộ các danh nhân và Nhà thờ của Dòng họ được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia, đã mời đón Bằng vào ngày mai, 13 tháng giêng, vì dịch mà phải hoãn lại. Tuấn nói với bác Minh: “Cụ còn lâu mới đi được”. Vậy mà sáng sau cụ ra đi, ngày 24-2-2021, tức 13 tháng giêng năm Tân Sửu. Đúng ngày Hợp tế. Ngày hằng năm con cháu vẫn về. Khi đó vẫn chưa bùng phát dịch COVID-19 mà mẹ tôi gọi là dịch hạch. Ngày 25-3, 49 ngày bà mất, theo ý nguyện của bà, chúng tôi đưa bà lên cúng chay trên chùa, pháp danh của bà là Diệu Hoa. Ngày 28-3 thì có chỉ thị không được tụ tập quá 20 người, Ngày 1-4 thì cách ly toàn thể xã hội. Vợ tôi bảo: “Bà chọn ngày đi sao mà khéo thế! Chỉ chậm vài ngày thì con cháu không thể về được trong ngày giỗ bà”…♦
Tháng 4-2021
TRẦN ĐĂNG KHOA