Lưu Khánh Đàm (989-1058): người xướng xuất việc dời đô

Một tư liệu vừa được phát hiện về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội (*)

L.T.S: Các tài liệu mới sưu tầm ở Thái Bình trong đó có Ngọc phả - nói đến việc Lưu Khánh Đàm xướng xuất việc dời đô về Thăng Long. Trong lịch sử Việt Nam, không thiếu những câu chuyện tương tự. Ví như kế sách đánh cụm thành Điêu Diêu là do Trần Nguyên Hãn đề xuất, vả lại chính Lê Lợi giao việc ấy cho Nguyên Hãn và cũng giành được thắng lợi, chặn được Liễu Thăng, Mộc Thạnh đem quân giải vây cho Vương Thông ở thành Đông Quan. Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi. Ngô Trì tiến cử Nguyễn Trãi cho Lê Lợi. Xưa có câu “Thần thiêng tại bộ hạ” là thế.

Hồn Việt đăng bài viết của hai nhà nghiên cứu ở Thái Bình về vấn đề này để bạn đọc tham khảo.

Làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng (nay là thôn Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà) đã sớm đi vào sử sách nước Việt, nơi đây hoàng thái tử Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) con vua Lý Cao Tông (1176-1210) đã về ở khi có loạn Quách Bốc ở Kinh Thành (năm 1209). Tại đây, thái tử đã gặp Trần Thị Dung, thứ nữ của Trần Lý, có nhan sắc, bèn lấy làm vợ: “Cuộc tình duyên ấy đã đưa họ Trần lộ Long Hưng vào cung đình, rồi từng bước thay nhà Lý nắm vương triều”.


Ảnh minh họa.

Vì sao thái tử lại chạy về Lưu Xá ở Ngự Thiên, vì đất Lưu Xá là quê hương của những công thần khai quốc triều Lý, làng Lưu Xá hiện nay còn giữ được khá nguyên vẹn những thiết chế tín ngưỡng cổ: lăng mộ, đền, chùa, bia ký, ngọc phả, thơ văn, sắc phong của các triều đại về họ Lưu ở đây.

Theo bia ký khắc dựng từ thời Lý và ngọc phả nhị Lưu Đại Vương - chính bản Lễ bộ quốc triều (triều Lê) thì vua Lý Thái Tổ (1010-1028), vua Lê Hiến Tông (1498-1504) đã từng về thăm và lưu bút tích ở đây. Bài thơ của vua Lê Hiến Tông do Hàn Lâm Trực học sĩ Đông Bình Nguyễn Vĩnh Toản viết chữ. Qua bài thơ Lưu Gia đô của Chiêu Minh Vương, Tướng quốc thái úy Trần Quang Khải (1241-1294) được biết các vua Trần cũng đã từng “ghé qua đây”.

Vào triều Nguyễn còn có bút tích của cử nhân Bùi Kim Linh, hiệu Thụy Đình, người huyện Tiên Lữ, phó bảng Trần Huy Liên, đồng tri phủ, tri huyện Diên Hà của nội các hành tẩu An Bình Lê Quý Huyên – cháu nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784), tiến sĩ Ngô Thế Vinh… Những ghi chép trên đều ca ngợi công lao của Lý triều công thần nhị vị Thái phó Lưu Đại Vương, tức Lưu Đàm (Khánh Đàm), Lưu Điều (Khánh Điều).

Lưu Đàm – Lưu Điều là con Lưu Ngữ gốc quê Châu Ái (Thanh Hóa). Lưu Ngữ thông minh trí tuệ, giỏi về văn học lại xuất thân từ một gia đình thi thư, hiếu đễ truyền gia. Lê Đại Hành lên ngôi ban chiếu cầu hiền tài trong thiên hạ, Lưu Ngữ ra ứng thí, khi vào gặp vua Lưu Ngữ đối đáp đúng ý vua, được vua bổ dụng chức Thị tụng (1). Vua cử ông ra trấn giữ miền cửa Luộc (Châu Đằng) lại ban cho ông ruộng lộc ở đây. Ông về vùng đất Lưu Xá ngày nay thấy hình thế sông ngòi, gò đống vừa đẹp vừa tiện lợi. Phía sau có sông, phía trước có đầm lớn, hình long, hổ ôm bế, lại có dải đất hình phượng hoàng, có giếng nước trong, nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu, ông bèn định cư ở đây.

Lưu Ngữ đã lấy bà Trần Thị Ngọc nhưng chưa có con, ở Lưu Xá ông lại lấy bà Phạm Thị Hồng con ông Phạm Khuông, một nhà giàu có, hào hiệp. Dù làm thiếp nhưng cô Hồng biết cư xử với bà chánh thất nên dân làng đều khen ngợi. Lưu Ngữ sống hòa thuận, dù làm quan nhưng không kiêu ngạo, lại chăm làm việc thiện nên được dân làng quý mến, rồi điều mong mỏi của ông bà đã đến, cả hai bà đều mang thai, ngày 12 tháng 8 năm Kỷ Sửu (989) vào giờ Dần bà Ngọc đã sinh được một người con trai, đến giờ Ngọ cùng ngày bà Hồng cũng sinh được một con trai. Cả hai đứa trẻ đều mặt mũi khôi ngô, vợ chồng ông Ngữ liền đặt tên cho anh là Lưu Đàm, em là Lưu Điều, hai tên Đàm và Điều đều có nguồn gốc từ tên cha (Trong chữ Hán, chữ Ngữ, Đàm, Điều đều có bộ ngôn(2))

Lưu Đàm, Lưu Điều thông minh, sáng dạ, lên 5 tuổi đã hiểu biết được luật âm thanh. Lên 8 tuổi, ông bà gửi hai con đến học thầy Hoa Đường ở kinh đô Hoa Lư. Sau 5, 6 năm theo học thì tam phần, ngũ điển (những sách cổ của Trung Quốc) đều thông hiểu; lục thạo, tam lược (những sách về binh pháp) đều tinh thông, song tính cách và sở trường của mỗi người có khác nhau: Lưu Đàm uyên thâm sâu sắc về văn học, tính nết hiền hậu, ôn hòa. Lưu Điều giỏi võ nghệ, tính khí hiên ngang. Cả hai đều có chí giúp nước, giúp dân, che chở cho dân.

Vua Lê Đại Hành mất (1005), Lê Long Đĩnh lên thay. Lưu Ngữ được giữ chức Thái Bảo, song Long Đĩnh “làm việc càn dỡ, giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo”. Long Đĩnh chỉ ở ngôi được 4 năm (1006-1009) thì mất, Lưu Ngữ nhớ lại có lần gặp một cụ già đưa cho ông một bài thơ 4 câu, giờ ngẫm lại đúng:

Nguyên văn:

Phiên âm:

Hòa đao mộc lạc thị Lê tà
Thập bát tử thành nãi Lý gia
Nhị đóa mẫu đơn tương hứa nhữ
Hậu lai sinh xuất lưỡng tài hoa.

(Nghĩa là: họ Lê mất, họ Lý sẽ làm vua, ta cho ngươi hai đóa mẫu đơn sau sẽ sinh hai người con tài hoa).

Ngọa Triều có lần ăn quả khế lai có hạt mận, lại nghe có sấm truyền nhà Lê sẽ mất, nhà Lý sẽ lên, liền cho người tìm trong thiên hạ, ai họ Lý thì giết. Bấy giờ, Lý Công Uẩn là quan thần vệ đứng bên mà không biết, Lưu Ngữ đến nói với Lý Công Uẩn “thần xem tướng ngài về sau ắt sẽ là bậc đại quý, thần có hai đứa con xin đại nhân thương cho, khiến các con thần chọn được chủ mà thờ”. Lý Công Uẩn không dám nhận, trong lòng sợ hãi nói: “Nay thần và khanh cùng một vua, thần đâu dám mong nỗi gì, sao khanh lại ngỏ lời nói ấy”. Lưu Ngữ khẩn thiết nói đến hai ba lần. Lý Công Uẩn cũng nhìn thấy Lưu Đàm, Lưu Điều đường đường uy dũng nên ông mới ưng thuận nhận hai con trai của Lưu Ngữ vào làm thủ túc.

Sau khi đã ký thác gửi lại hai con, Lưu Ngữ gọi các con lại dặn dò ba việc:

- Việc thứ nhất: phải hết lòng phụng sự Lý Công Uẩn.

- Việc thứ hai: muốn được ghi tên mình vào trúc bạch (sử sách) thì chớ có chơi bời du đãng, phải tạm xa rời thân thiết, không nặng gánh gia đình, chỉ biết có vua.

- Việc thứ ba: Lưu Xá là nghĩa ấp, phải qua lại chăm sóc giữ gìn…

Nói xong Lưu Ngữ từ biệt Lý Công Uẩn về trí sĩ. Lưu Đàm, Lưu Điều ở lại với Lý Công Uẩn. Ngày Lê Ngọa Triều băng hà. Quan Chi Hậu Đào Cam Mộc bàn với Lưu Đàm, Lưu Điều lập Lý Công Uẩn lên làm vua, các đại thần cũng đồng lòng nhưng Lý Công Uẩn cố chối từ. Lưu Đàm tiến đến thưa rằng: “Nay Ngọa Triều thất đức, giết anh ngược đãi mọi người, nay đã chết. Minh công uy đức hơn người, nơi nơi đều rõ, chúng tôi nguyện theo lời thỉnh cầu của mọi người cùng nhau hiệp lực làm cho điềm lành chấn động, ứng với trời và người, xin minh công chớ do dự”.

Lưu Đàm nói chưa dứt lời thì Lưu Điều vung kiếm chém đứt đôi chiếc án (trác án) nghiêm giọng nói rằng: “Triều đình không thể một ngày vô chủ, nay Ngọa Triều vô đạo, trời oán, người giận. Lý Công uy đức hơn người, vốn được trọng vọng. Thiên hạ đồng lòng theo về cùng lập lên ngôi đế, kẻ nào dám càn rỡ, sinh chuyện dị nghị sẽ giống như chiếc án này!”. Cả triều đình nghe lời nói ấy, không ai không sợ hãi bèn phò Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế. Triều đình bái lạy, tung hô vạn tuế.

Lý Công Uẩn lên ngôi (Lý Thái Tổ) phong cho Lưu Đàm làm Quang Lộc đại phu hầu cận bên cạnh, Lưu Điều làm Trung úy, chỉ huy cấm binh, tuần phòng thành nội.

Lưu Đàm dâng lời nói rằng: “Long Châu là nơi giàu mạnh, chính là cái gốc bền vững, đóng đô ở đó sẽ cường thịnh lâu dài, thiên hạ vô địch, mong bệ hạ dời đô ra nơi đó”.

Lý Thái Tổ nghe lời, chọn ngày cùng Lưu Đàm, Lưu Điều và văn võ bá quan điều động xa giá cử hành việc dời đô.

Triều Lý vừa lập, giặc từ phương Nam lấn tới, Lưu Khánh Đàm được vua Lý Thái Tổ giao cùng các tướng cầm quân đi đánh giặc, bắt sống vua nước Chiêm là Bố Hợp đem về. Ở phía Nam vừa yên thì phía Bắc giặc Tống lại lăm le lấn tới. Ông tâu với vua: “Mong bệ hạ đừng lo, xa giá bệ hạ thân chinh để thị uy bốn biển, ngoài cõi, thần và nghĩa đệ cùng các tướng sĩ lo đánh giặc”. Thời Lý ba lần giặc Tống vào đánh chiếm nước ta, đều bị quân dân ta đánh bại trong đó có công của Lưu Đàm.

Thái tổ xét Lưu Đàm là người đánh Nam dẹp Bắc lại có “thiện kế” (kế giỏi). Xướng xuất việc rời đô bèn phong ông làm thái phó, khai quốc công thần, giao cho ông dạy bảo thái tử Phật Mã.

Thái Tổ mất, Thái Tông lên ngôi, Lưu Khánh Đàm tâu xin vua miễn phu dịch và thuế cho dân làng Lưu Xá. Ông lại mua nhiều ruộng ao để làm của công cho dân làng.

Khi Thái Tông băng, Thánh Tông lên ngôi lại phong cho Lưu Khánh Đàm làm Bình Chương sự. Cuối đời, Khánh Đàm xin về ở Lưu Xá, sửa chùa làng và tu ở đó. Vua Thánh Tông vì ông mà xa giá về Lưu Xá, nơi Lưu Khánh Đàm xuất gia.

Tương truyền trong những năm tu ở chùa làng, Khánh Đàm đã cùng các thiền sư Giác Hải, Dương Không Lộ, Đỗ Đô tổ chức cho dân “khai thông sông Luộc”, “móc ruột sông Sinh”, “Đào phình sông Hóa” (3) ở Thái Bình. Đến nay dân gian vẫn lưu truyền chuyện ba sư, một sãi.

Lưu Khánh Đàm thọ 69 tuổi.

Ngày Khánh Đàm qua đời, vua Thánh Tông về dự lễ an táng, vì ông là khai quốc công thần nên vua ban tên nơi ông tu hành là chùa Báo Quốc, ban cho ông tước vương, ban mĩ tự là Chính trực chiêu cảm, lại cho xây một tháp cao 9 trượng, 9 tầng ở bên lăng của Lưu Đàm vương. Dân làng Lưu Xá biết ơn xây đền thờ và tôn ông làm Thành hoàng.


Lễ hội tưởng nhớ các vị Thành hoàng. Ảnh: queluathaibinh.com.

Tên tuổi công danh và sự nghiệp của ông được ghi rõ: Quang lộc đại phu súy thành tá lý công thần, nhập nội thị sảnh đô, đô tri tiết độ sứ đồng tam ty Bình chương sự, thượng trụ quốc, khai quốc công thần, thực ấp 6.000 hộ, thực phong 3.000 hộ, thái úy quốc công, gia thái phó.

Lý Nhân Tông lên ngôi, ban cho ông bốn mỹ tự “Hiển ứng linh thông”, các triều sau đều có sắc phong thần cho ông. Đền thờ ông và chùa Báo Quốc đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.


(*)

Bài do hai tác giả Nguyễn Tiến Đoàn - Nhà nghiên cứu Hán Nôm và Phạm Minh Đức - Nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cùng viết.

(1)

Chức quan luôn ở bên vua để vua tham vấn công việc triều đình.

(2)

Chữ Ngữ , Đàm , Điều đều có bộ ngôn .

(3)

Vừa là đồng dao vừa là tục ngữ Thái Bình.

NGUYỄN TIẾN ĐOÀN – PHẠM MINH ĐỨC