Những chiến công bất tử
Mồ côi mẹ mới lên 6, cha có vợ kế lại hoạt động cách mạng, tính cách tháo vát, độc lập sớm hình thành ở Thu Nguyệt nhưng là một cô bé giàu tình cảm, sẵn sàng hy sinh, xả thân cho người mình yêu thương. Đó là một cô gái bé nhỏ như trong bức ảnh năm chị 19 tuổi, cũng biết diện cho mình đẹp, hòa nhập giữa dòng người Sài Gòn hoa lệ lại âm thầm hành động cho những trận đánh xuất quỷ nhập thần.
Là thành viên đội biệt động 159, Thu Nguyệt cùng bao đồng đội ngày đêm trăn trở nhằm thực hiện những trận đánh gây hoang mang, bất ngờ cho địch. Trong bộ quần áo nữ sinh về thăm quê, Thu Nguyệt nhận nhiệm vụ chuyển vũ khí, đặc biệt lọ thuốc độc về nội thành. Và kết quả là các chiến sĩ biệt động đội 159 đã dùng thun, ná tẩm thuốc độc bắn chết 4 tên Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo. Cô gái mới 19 tuổi năm ấy đã biết gây tiếng nổ giữa lòng địch bằng các loại vũ khí thô sơ như để khí đá trong tĩn* nút kín. Từ những cách đánh thô sơ, Nguyệt nhận nhiệm vụ tiến lên đánh bằng lựu đạn, mìn…
Đó là trận đánh trước tòa đô chánh Sài Gòn. Tháng 10/1962, chính quyền Sài Gòn tổ chức trưng bày “chiến lợi phẩm” thu được của ta như súng ngựa trời, lựu đạn, chông tre… nhằm mục đích cho công chúng nhìn thấy sức mạnh ưu việt của chính quyền Mỹ và tay sai so với tiềm lực nghèo nàn của cách mạng. Địa điểm triển lãm kéo dài từ Nhà hát lớn đến khách sạn Continental, qua đường Nguyễn Huệ, có 100 nhà báo đến dự và hàng ngàn người xem.
Trong men say chiến thắng, địch không hay rằng đội biệt động 159 đang chuẩn bị trận đánh vỗ mặt vào lòng kiêu hãnh sức mạnh vật chất của Mỹ. Trận đánh này do Lê Thanh Tùng trực tiếp chỉ huy, với sự tham gia các chiến đấu viên Trần Cưỡng, Trần Tiên Quang, Lê Thị Thu Nguyệt. Điều quan trọng là làm thế nào đưa được chất nổ vào nội thành, nơi dày đặc mật vụ, hàng rào phòng thủ của chính quyền Sài Gòn. Nhiệm vụ đặc biệt này được giao cho Thu Nguyệt.
Trong bộ quần áo dài trắng về thăm quê lên Sài Gòn học, Nguyệt mang theo hai chậu kiểng được ngụy trang, dưới lớp đất là những quả lựu đạn. Tim chị cơ hồ nhảy ra khỏi lồng ngực khi tên lính xét giấy tờ, đòi đập vỡ hai chậu kiểng xem có chất nổ không. Quá bất ngờ, Thu Nguyệt òa lên khóc, nói rằng ông bà ngoại sẽ đánh chết cô nếu đem 2 chậu kiểng về nhà không còn nguyên vẹn. Vẻ đẹp tinh khiết và nước mắt cô nữ sinh làm mềm lòng tên lính. Anh ta khoác tay ra hiệu đồng bọn bỏ đi.
Nhờ “hai chậu kiểng” còn nguyên mà sáng ngày 26/10/1962, với chiếc khăn mùi - soa trắng mỏng manh trong bàn tay bé nhỏ của Thu Nguyệt, quả lựu đạn đã phá hỏng 1 trực thăng HU1A, làm 3 tên chết, 2 tên bị thương và chiến công lớn hơn của trận đánh là đã phá vỡ được cuộc triển lãm của địch dự định trong bảy ngày, làm thất bại âm mưu chính trị của chính quyền Sài Gòn trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Cũng không ai nghĩ, người phụ nữ bé nhỏ, dịu dàng ngồi trước mặt tôi nói những chuyện đời thường về cơm ăn áo mặc, mối lo toan thường tình như bao phụ nữ khác là Lê Thị Thu Nguyệt - nữ biệt động đội 159 đưa được mìn nổ chậm - một loại vũ khí do Quân giới Quân khu sản xuất từ Củ Chi vào sân bay Tân Sơn Nhất, gài được mìn hẹn giờ trên máy bay Boeing 707.
Để thực hiện được trận đánh quan trọng này, đội biệt động 159 trước đó đã tiến hành gài người vào làm nhân viên điều khiển không lưu ở sân bay, mang bí số 8E, tức Mười Luân; đồng thời đưa Thu Nguyệt đóng vai người yêu của Mười Luân ra vào sân bay để điều nghiên mục tiêu.
Ngày 25/3/1963, một gói thuốc nổ mạnh C4 cài đồng hồ hẹn giờ được ngụy trang trong một chiếc túi du lịch, giống y hệt chiếc túi du lịch mà bọn cố vấn Mỹ thường dùng. Khi khoác “túi du lịch” đến từ giã “người yêu”, Thu Nguyệt đánh tráo túi du lịch của một tên Mỹ trong phòng đợi.
Theo kế hoạch, quả mìn sẽ nổ khi máy bay cất cánh 15 phút. Nhưng chiếc Boeing 707 hôm ấy chở 80 cố vấn Mỹ rời Sài Gòn sang San Francisco, quá cảnh sân bay Honolulu được 2 phút mìn mới phát nổ. Toàn bộ máy bay bị phá hỏng. Thoát chết trong gang tấc, bọn cố vấn Mỹ vô cùng kinh hoàng. Nếu như hôm ấy, chiếc đồng hồ hẹn giờ không bị trục trặc do máy bay lên độ cao 10.000 mét, áp suất không khí khiến nó chạy chậm lại, thì 80 cố vấn Mỹ đã tan xác trên bầu trời.
Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin về trận đánh này, trong đó có lời khen ngợi của Hồ Chủ tịch. Quả mìn ấy tuy không nổ đúng giờ nhưng có sức công phá lớn hơn vào dư luận, gây kinh hoàng cho Mỹ ngay phía bên kia bờ Thái Bình Dương: “Không chỉ Việt cộng đánh chúng ta trong thành phố, mà ngay cả bên Mỹ”.
Nghe chị kể xong, tôi thốt lên: “Thật phi thường”. Thoáng vẻ ưu tư trên nét mặt, chị nói: “Một mình tôi không làm nên chiến công, bởi sống trong hang ổ của địch đánh địch, những chiến sĩ biệt động không chỉ mưu trí, dũng cảm, có khả năng ứng phó nhanh nhạy mọi tình huống mà còn phải xây dựng được mạng lưới cơ sở, triệt để tuân thủ bí mật tổ chức, vượt qua những áp lực từ gia đình, dư luận xã hội, thậm chí hy sinh cả hạnh phúc riêng tư, cả bản thân mình để hoàn thành nhiệm vụ. Nếu không được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, những con người bình thường như tôi không thể làm nên những điều “phi thường” như cách nói của em. Nếu hai chữ “phi thường” nằm trong nội hàm ấy thì có biết bao chiến sĩ biệt động đã làm nên hai chữ kỳ diệu ấy”.
Chị bật cười khi nhớ lại những tình huống ra trận: “Hồi đó chị cũng không biết vì sao mình làm được những chuyện ngoài sức tưởng tượng. Chị phải đóng kịch giỏi hơn cả các diễn viên trên sân khấu, giả bộ làm người yêu của anh Mười Luân thật nhập vai, lúc về nhà, gặp lại anh chị mắc cỡ muốn chết!”.
Thu Nguyệt tiếp tục làm tôi kinh ngạc khi được gặp chị ngày mồng 6 Tết trong cuộc họp mặt nữ tù chính trị và tù binh tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ. Sau này tôi mới biết, chị bị bắt năm 1963, khi chuẩn bị đi báo báo thành tích trong đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua. Chị đã trải qua 11 năm trong các nhà tù khét tiếng của Mỹ ngụy, từ An Ninh quân đội, Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, chuồng cọp Côn Đảo… Và trên đôi chân chị ngày hôm nay, vết chó berger cắn lúc bị địch thẩm vấn vẫn còn hằn dấu.
Trên bàn, bình hoa hồng tươi thắm còn đọng sương như thể tất cả đều nguyên vẹn. Chị đãi tôi những trái cây đầu mùa chín mọng, ngỡ như cuộc sống thật tươi đẹp, hoàn hảo nhưng tôi biết, di chứng những vết thương chiến tranh đang âm thầm hủy hoại và chị một lần nữa, bằng nghị lực phi thường đang chống đỡ với căn bệnh hiểm nghèo để sống và yêu thương…
Người mẹ của hai đứa con du học

Thu Nguyệt và con trai Đỗ Khánh Vinh trong ngày họp mặt nữ tù chính trị và tù binh tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ. Năm 2005
Mãi đến ngày hòa bình, chị mới lấy chồng - một sĩ quan công tác trong Quân khu 7. Người phụ nữ bước ra từ máu lửa chiến tranh một lần nữa phải vượt qua bệnh tật, 5 lần sẩy thai mới sinh được hai bé trai kháu khỉnh, thông minh. Mới đó mà đã hơn 30 năm trôi qua, chuyện kể của những bà mẹ thời bao cấp khó khăn cũng giống như huyền thoại.
Làm tốt vai trò Hội phó Hội Liên hiệp Phụ nữ quận Tân Bình, Bí thư chi bộ, Trưởng cửa hàng lương thực trung tâm vừa nuôi hai con nhỏ, chồng là bộ đội thường xuyên vắng nhà; một lần nữa chị lại đối mặt với trận chiến không tiếng súng nhưng không kém phần khốc liệt. Chị đã vượt qua và chiến thắng, cho đến ngày về hưu. Nhưng chiến công lớn nhất mà chị làm được là nuôi dạy hai con vừa khỏe đẹp vừa học hành đỗ đạt, ngoan ngoãn.
Khi tôi gặp chị, cháu Đỗ Khánh Vinh đã tốt nghiệp đại học khoa hàng không không gian hạng giỏi ở Boston nước Mỹ, hiện công tác tại Tổng công ty hàng không Việt Nam. Đỗ Khánh Hiếu đang học năm cuối ở một trường Đại học ở Anh, ngành Hóa. Chị nói: “Ngày đầu tiên tiễn con đi, tôi đứng ngồi không yên. Tôi làm một cuộn băng dặn con đủ điều. Rất may là các cháu rất ngoan, rất chăm học và tiết kiệm. Tuy ở xa nhưng tôi luôn theo dõi từng bước đi của các con. Vừa bắt các cháu báo điểm mỗi kỳ thi, vừa theo dõi điểm của nhà trường báo về”.
Chị đã từng ao ước được học hành tới nơi tới chốn nhưng đất nước chiến tranh, không thực hiện được. Giờ chị quyết đầu tư cho các con vào việc học. Chị khuyên các con: “Cần tiếp thu khoa học kỹ thuật ở các nước tiên tiến nhưng phải luôn nhớ mình là người Việt Nam”.
Và chuyến đi Nottingham…

Bà Lê Thị Thu Nguyệt cùng chồng là Đại tá Đỗ Khánh Vân đến trường ĐH Nottingham, nước Anh dự lễ tốt nghiệp Cử nhân của con trai Đỗ Khánh Hiếu, năm 2006
Vào tháng 7/2006, vợ chồng bà Lê Thị Thu Nguyệt sang trường Đại học Nottingham (nước Anh), dự lễ tốt nghiệp đại học của đứa con trai út Đỗ Khánh Hiếu.
Khi chiến tranh lùi xa vào quá khứ, chị Thu Nguyệt tâm sự: “Phụ nữ Việt Nam phải cầm súng là điều bất đắc dĩ. Khi đất nước bị xâm lược, bị chia cắt; chúng tôi phải chiến đấu dưới mọi hình thức để bảo vệ Tổ quốc. Sống trong chiến tranh, bị giam cầm trong các nhà tù đế quốc, chúng tôi luôn mơ đến ngày hòa bình, được sống với những điều bình thường, giản dị nhất”.
Tháng 9 năm 2006, đến thăm chị Thu Nguyệt, tôi nhận ra vẻ rạng ngời hạnh phúc của người mẹ khi đằng đẵng tám năm trời luôn dõi theo bước chân các con trên xứ người. Chị kể hành trình gian nan ngày đầu đưa con du học. Những năm cuối thập kỷ 90, việc hai vợ chồng cán bộ cách mạng cho con du học sang Mỹ cũng không hẳn được sự ủng hộ của người thân, đồng đội.
Trong căn phòng khách của nữ biệt động năm xưa, ở góc trang trọng nhất là hai tấm bằng tốt nghiệp đại học của hai đứa con trai. Chị Nguyệt nói: “Tôi rất vui vì các con tôi luôn tự hào là người Việt Nam. Vì niềm tự hào đó mà các cháu đã nỗ lực, tốt nghiệp hạng giỏi trên xứ người. Các con tôi nhận thức rằng cần phải tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến để trở về phục vụ quê hương. Với tấm bằng đại học ở những ngành kỹ thuật mũi nhọn, các cháu có thể kiếm được vài ngàn đô la mỗi tháng ở Mỹ hay Anh nhưng các cháu đã trở về Việt Nam công tác”.
Mùa xuân năm 2009, tôi gặp Đỗ Khánh Hiếu đưa mẹ đến Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ dự buổi họp mặt nữ tù, với nụ cười tươi trên gương mặt thanh xuân, tôi nghĩ là em đang vô cùng hạnh phúc khi được sống, làm việc và phụng sự cho Tổ quốc mình.
Tháng 4/2009
________________
(*) Tĩn: cái hũ lớn bằng sành, hình quả bầu.