Năm 2001, tôi được gặp bà Vương Thị Trinh - người phụ nữ đã có một quãng đời gắn bó với trung tướng Nguyễn Bình, trong lễ kỷ niệm 50 năm ngày ông hy sinh. Đến tháng 8/2008, khi tôi dự cuộc họp báo chuẩn bị lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh, 60 năm ngày được phong tướng của anh hùng lực lượng vũ trang, liệt sĩ Nguyễn Bình thì nghe tin bà mất. Bà có nguyện vọng được đưa hài cốt về chùa Pháp Hoa, nơi thờ trung tướng Nguyễn Bình. Tôi lặng người trước sự ra đi của bà, lặng người trước mối tình bền chặt, thủy chung mà bà đã dành cho ông. Khi sống, bà đã không thể cùng ông đi suốt cuộc đời. Khi mất, không ai ngăn được bà ở bên ông…
Hôm ấy, tháng 9 năm 2001, ở chùa Pháp Hoa có một người phụ nữ độ tuổi 80, gương mặt tròn, sáng ngời lên vẻ dịu hiền, phúc hậu. Bà lặng lẽ đến bên di ảnh trung tướng Nguyễn Bình, thắp lên nén hương tưởng niệm. Gương mặt bà chìm trong nỗi trầm tư khác thường. Bà đứng lặng trước di ảnh tướng quân, như cố ngăn lại một điều gì đó đang dâng tràn. Trong khoảnh khắc, bà như hóa đá giữa làn khói hương mù mịt. Bà như quên đi tất cả, chỉ còn lại một mình với hình bóng của tướng quân.

Nữ sinh trường Áo Tím Vương Thị Trinh năm 1941.
Sau khi vượt qua kỳ thi tú tài 1,
hưởng ứng phong trào “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”.
Sau đó, qua ông Vũ Hải Sơn - nguyên Tham mưu trưởng trung đoàn 950, tôi mới biết người phụ nữ lặng lẽ ấy chính là Vương Thị Trinh - người phụ nữ đã từng có một quãng đời gắn bó với trung tướng Nguyễn Bình. Ấn tượng trong ngày gặp bà Vương Thị Trinh ở chùa Pháp Hoa đưa tôi đến ngôi nhà 34 Nguyễn Thiện Thuật, quận Bình Thạnh. Tiếp tôi trong phòng khách nhìn ra một vườn bon-sai xinh nhỏ, bà Trinh nói:
- Cuộc đời tôi chẳng có gì đáng để kể. Năm tháng qua đi, có những kỷ niệm đẹp, rất đẹp. Tôi đã từng có khững khoảnh khắc hạnh phúc… Và như vậy cũng quá đủ cho một đời người.
Tôi biết đó chỉ là cách nói của bà. Một tiểu thư cành vàng lá ngọc, con gái một điền chủ có 100 mẫu vườn dừa ở làng Điều Hòa, Mỹ Tho đến với cuộc kháng chiến bằng bầu nhiệt huyết sôi sục của tuổi trẻ, bằng tất cả sự trong sáng của tâm hồn, từng đã yêu, được yêu và gắn bó cuộc đời với một vị tướng lỗi lạc có quá nhiều kỷ niệm giấu trong lòng. Bà chọn sự im lặng để thể hiện tình yêu của mình. Trong trái tim bà, mối tình đầu hơn nửa thế kỷ vẫn còn nguyên vẹn, như mới ngày hôm qua…

Nguyễn Bình lên đường ra Bắc.
Hoàn cảnh nghiệt ngã buộc hai người phải chia xa
nhưng hình ảnh ông vẫn sống trong tâm tưởng của bà.
Năm 1945, vượt qua kỳ thi tú tài 1, cô nữ sinh Vương Thị Trinh hưởng ứng phong trào “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Cô làm y tá, vượt qua mặt trận Thị Nghè đầy máu lửa, đưa thương binh về An Phú Đông. Cô khởi đầu sự nghiệp cách mạng bằng một việc làm đầy ý nghĩa.
Trong những ngày đầu quân Pháp tái chiếm Nam bộ, quân dân ta đứng lên chống giặc bằng đủ loại vũ khí. Để có tiền cho kháng chiến, bộ ba Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Bích, Phạm Ngọc Thảo nghĩ ra cách viết một quyển sách kể chuyện kháng chiến bằng tiếng Pháp, mang tựa đề: “Variétés du Maquis” (Chuyện bưng biền).
Điều kiện in ấn trong vùng căn cứ lúc ấy gặp muôn vàn khó khăn. Thấy Trinh thạo tiếng Pháp, chữ đẹp nên ba ông Thuần, Bích, Thảo nhờ cô chép tay. Sách có bìa minh họa sinh động, kể chuyện Thái Văn Lung bị bắt và hy sinh, cùng nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm khác. Trinh nắn nót từng chữ, hết đêm này qua đêm khác, ngày này qua ngày khác, khẩn trương nhưng tỉ mỉ, chép hơn 100 quyển “Variétés du Maquis” bằng Pháp ngữ. Cuốn sách bí mật đưa về thành. Bà Trinh kể:
“Tôi nghĩ đó là quyển sách đắt nhất mà tôi được biết. Giới tư sản trong thành đã bỏ số tiền lớn, có khi đến mấy trăm đồng Đông Dương mua quyển sách dày chưa đến 30 trang. Tiền bán sách giúp bộ đội trang bị vũ khí đánh giặc. Khi giặc Pháp đánh ra ngoại thành, căn cứ An Phú Đông bị vỡ, chúng tôi chuyển về căn cứ Vườn Thơm, dần dần xa thành phố hơn như Đức Hòa, Đức Huệ… rồi về miền Tây”.
Từ một nữ sinh xuất thân trong gia đình giàu có, chưa từng quen cuộc sống gian khổ, khắc nghiệt trong chiến khu nhưng Trinh thích nghi dần với cuộc kháng chiến. Cô biết bơi xuồng, hái bông điên điển, giăng câu, đặt lờ… kiếm chút “chất đạm” cho cơ quan. Có lẽ vì sự hòa nhập, hồn nhiên ấy mà ngay trong ngày đầu gặp gỡ, vị Khu trưởng khu 7, sau này là Tư lệnh Nam bộ, trung tướng Nguyễn Bình đem lòng yêu mến cô.

Bà Vương Thị Trinh sau khi được trao trả
tại Ninh Giang, Thái Bình, năm 1954.
Vị chỉ huy với trực giác nhạy bén, con mắt nhìn người tinh tường ấy đã chọn cô, giao cho cô một công việc vô cùng quan trọng. Đó là công tác mật mã và cô là cán bộ, trưởng ban mật mã đầu tiên ở chiến trường Nam bộ.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 25/3/1946, nhà nước ta đã ký sắc lệnh về tổ chức quốc phòng, trong đó có phòng mật mã (nay đổi thành cơ yếu). Đáp lại lòng tin cậy của vị chỉ huy, cô càng nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ. Cô lặng lẽ giữ đài VMA2, lặng lẽ thực hiện những mật mã do Tư lệnh Nguyễn Bình chỉ đạo. Sau Vương Thị Trinh, còn rất nhiều cô gái được trao nhiệm vụ bí mật và quan trọng này.
Tôi hỏi: “Họ đã làm những công việc gì mà quan trọng đến như vậy?”.
Bà Trinh cười độ lượng nói: “Cô hãy hình dung áp lực công việc của những người “giữ ngựa”, khi có điện tín của quân báo, trinh sát gởi về, lập tức Bộ Tư lệnh có mật điện thông báo cho các tỉnh đội, các cơ quan quân dân, chính Đảng biết để chuẩn bị chống càn quét của địch. Lúc này, anh chị em mật mã và vô tuyến điện phải thường trực 24/24 giờ dịch mã xong điện và nhanh chóng truyền đi mệnh lệnh tuyệt mật của bộ Tư lệnh ra Trung Ương và các tỉnh đội, mặt khác có bộ phận di chuyển địa điểm, cất giấu tài liệu, xung quanh có hầm chông và gài lựu đạn để bảo vệ.
Còn ở vùng đồng nước, chúng tôi cất giấu “con ngựa” (mật mã) vào bọng cây mù u, bởi trong ruột cây mù u có mủ, đốt lửa cháy trong bụng cây khoảng 1 mét cất tài liệu mật rất an toàn, không sợ bị ướt. Riêng anh em mật mã cơ động đi trực tiếp chiến hào với bộ đội phải thuộc lòng cốt mật mã. Khi có điện của Bộ Tư lệnh Tiền phương gởi đến, cán bộ mật mã phải dịch ngay bằng miệng, không còn thời giờ lấy giấy bút. Ví mật mã với vô tuyến điện là anh em song đôi là vì vậy”.
Những năm tháng công tác mật mã dưới sự lãnh đạo của Tư lệnh Nguyễn Bình là quãng đời hạnh phúc nhất đời bà, cho dù đó cũng là những ngày vô cùng gian khổ. Địch càn quét liên miên, Bộ Tư lệnh nhiều lần dời địa điểm, có lúc ăn khoai mì thay cơm…
Bà đã từng bị sẩy thai trong một lần nhảy hầm chạy tránh máy bay. Chưa kịp hồi phục, bà lại lao vào công tác. Có được một tình yêu lớn, được đùm bọc trong tình thương đồng bào, cô gái trẻ năm ấy được tiếp thêm sức mạnh, sẵn sàng vượt qua mọi chông gai.
Bà đã chia sẻ cùng Tư lệnh Nguyễn Bình những giờ phút hiểm nguy nhất cũng như lúc vinh quang. Chính tay bà dịch bức điện Trung Ương phong hàm trung tướng cho Nguyễn Bình. Ngày lễ thụ phong trung tướng Nguyễn Bình ở Nhơn Hòa Lập (Đồng Tháp Mười) được Bộ tư lệnh Nam Bộ tổ chức rất trọng thể. Sự kiện đó còn là niềm tự hào chung của quân dân Nam Bộ. Cô “mật mã” lo cắt đặt hậu cần, đãi hàng trăm thực khách. Hơn nửa thế kỷ sau, nhớ lại những năm tháng ấy, bà có những dòng hồi ức đầy cảm động khi trung tướng Nguyễn Bình bị thương:
“Mồ tổ tụi con, “thằng Ba” nó có làm sao không? Đó là lời rầy la anh em chúng tôi vừa mới đến, đó là lời của mấy má chạy ra đón các con, miệng còn nhai trầu bỏm bẻm mà hai hàng nước mắt chảy dài trên má nhăn nheo.
Anh chị em chúng tôi lúng túng không biết trả lời sao, thì em Long vừa là bảo vệ, vừa chèo xuồng, vừa lo tiếp tế lúc anh Ba bị ốm đau và bị thương chạy ra nói ngay: “Mấy má đừng lo, anh Ba chúng con chẳng sao cả, anh sẽ đến ngay”. Em Liên y tá băng bó vết thương, ai cũng lo lắng.
Anh lại cười chúng tôi: “Mấy em nhát lắm, anh có làm sao đâu”. Rồi anh nghĩ không biết ngày nào lại đi công tác. Đối với mấy má và đồng bào, dù ở nơi nào anh cũng đều gần gũi và thăm hỏi, thăm viếng dù anh rất ít thì giờ. Anh Ba nói anh không thể nào kể hết được ân tình của các má và đồng bào ở mọi nơi, đã đùm bọc và yêu thương anh và các chiến sĩ trải dài khắp mọi nẻo đường đã đi qua từ Đức Hòa, Đức Huệ, Giồng Dinh, Ba Thu, Góc Rinh Vàm Cỏ, Vườn Thơm, kinh Dương Văn Dương, kinh 18, kinh 12 và nhiều nơi khác nữa…
Với đồng đội, anh chăm sóc chúng tôi, lo lắng sức khỏe cho chúng tôi. Có một lần ngày 2/9 trong chiến khu, anh không đi công tác, bảo em Long và tôi làm món lươn nấu củ chuối. Tôi phải hỏi anh các thứ phải nấu vì đây là món lạ. Em Long lo đi đặt trúm bắt lươn, tôi đi xin má củ chuối, thời gian đó là phải tự túc, sống nhờ dân. Anh vừa ý và ăn ngon. Lúc đó anh nhắc đến quê anh ở Kẻ Sặt, Bần Yên Nhân có loại tương bần ngon lắm. Có lẽ lúc đó anh nhớ đến quê nhà xa cách từ lâu. Anh nói ngày đất nước độc lập, anh sẽ đưa tôi về thăm quê anh…”.
Nhưng mãi mãi, trung tướng Nguyễn Bình đã không thực hiện được lời hứa với người phụ nữ mình rất mực yêu thương. Do đối mặt với uẩn khúc riêng tư, bà Trinh lặng lẽ ra đi. Cả hai đều vô cùng đau đớn vì cuộc chia ly nhưng bà không thể làm khác hơn. Bà về chiến trường miền Tây công tác, lại tiếp tục đối mặt với gian khổ, hiểm nguy.
Năm 1951, bà Trinh bị bắt vào nhà tù Catinat. Vượt qua những ngón đòn hiểm ác của địch, bà Trinh kiên quyết không chịu nhận là “vợ của trung tướng Nguyễn Bình”. Bà nói: “Vì nếu nhận là vợ anh Ba, địch sẽ lấn tới, sẽ dùng nhiều thủ đoạn nhằm khai thác mật mã mà tôi đã nắm giữ. Mật mã là bí mật của Đảng, tôi quyết không để kẻ địch lợi dụng”. “Để cách ly một phần tử nguy hiểm”, một năm sau, địch đưa bà Trinh ra nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), bị giam trong một xà lim dành cho tù tử hình. Sau đó, bà bị đày đi nhà tù Thanh Liệt (Hà Đông). Bà giả bệnh để ra ngoài nằm bệnh viện, nhằm liên lạc với tù nhân đấu tranh. Đoán được kế hoạch của những “bệnh tù”, địch đưa vào bệnh viện Bạch Mai, nơi có nhiều người bị bệnh truyền nhiễm.

Những năm tháng làm công tác mật mã
dưới sự lãnh đạo của Tư lệnh Nguyễn Bình,
là quãng đời hạnh phúc nhất của đời bà.
Những người “bệnh tù” tiếp tục đấu tranh, để trở lại nhà tù. Do hoạt động trong chi bộ nhà tù, bà bị tố cáo và một lần nữa, địch đưa bà trở lại nhà tù Hỏa Lò, lại bị giam trong xà lim tù tử hình… Ngày 26/7/1954, địch cố tình không trao trả những “phần tử nguy hiểm”, cách ly một số tù nhân vào nhà lao nhà máy Chai, định đẩy xuống tàu há mồm, đưa ra Côn Đảo. Nhưng trong số “tù nhân nguy hiểm” ấy có 2 ủy viên Thành ủy Hà Nội và số anh em tù làm công tác địch vận, vận động được số lính bảo an, đưa danh sách “những phần tử nguy hiểm” về Hà Nội đòi trao trả theo đúng tinh thần Hiệp định Genève.
Ngày 28/7/1954, bà Trinh cùng một số tù chính trị được trao trả tại Ninh Giang, Thái Bình. Cũng từ đây, cuộc đời bà rẽ sang một bước ngoặt khác. Bà công tác trong Ban liên lạc quốc tế của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, kết hôn với một cán bộ tập kết ra Bắc. Hiện nay, bà sống trong biệt thự tại 34 Nguyễn Thiện Thuật, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh với người con trai là giám đốc một công ty xây dựng.
Ở tuổi 80, bà sâu thẳm, độ lượng hơn khi nhìn lại những năm tháng đã qua. Suốt hơn nửa thế kỷ, kể từ ngày trung tướng Nguyễn Bình hy sinh, trái tim bà vẫn dành cho cố tướng quân một tình yêu nồng thắm. Bà cũng có nỗi khổ riêng của mình, bởi mãi đến năm 2000, bà mới thắp được nén hương trước mộ “anh Ba”.
Kỷ niệm những ngày đầu kháng chiến như dòng sông ào ạt chảy về, bà nghẹn ngào thầm nói: “Nén hương này, con xin thay mặt “anh Ba” để tạ ân tình của các má ở cái xứ “nước cốt dừa” đã thương yêu, đùm bọc con người mà các má thân thương gọi là “thằng Ba”, thằng “trung tướng”.

Bà Vương Thị Trinh trong những năm hoạt động ngoại giao ở miền Bắc, cùng con trai. Người chồng sau của bà là một trí thức, rất tôn trọng mối tình của bà và tướng Nguyễn Bình. Bà đã xin phép chồng lấy họ Nguyễn Bình và đặt tên con là Nguyễn Phương Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, bà sống cùng con trai - một doanh nhân thành đạt.
Con người bình dân, giản dị, hiên ngang vững bước đi về phía trước không một lời dặn dò, không một lời trăn trối đã bị gãy gánh dọc đường. “Thằng Ba” của các má hy sinh tại Phum Co Rơ Mia, xã Xê Rê Bok, huyện Xê Xan, tỉnh Stung Treng, đã được đồng bào Phum Co Rơ Mia chôn cất và giữ gìn ngôi mộ suốt 49 năm qua. Dưới sự giúp đỡ của hai nhà nước Việt Nam và Campuchia, hài cốt của anh Ba đã được đưa về nước và long trọng làm lễ cải táng ngày 13/3/2000…”.
Hôm ấy, bà lặng lẽ có mặt trong đoàn người đưa cố tướng quân về tổ quốc. Kể từ năm 1999, khi chùa Pháp Hoa xây tấm bia tưởng niệm các chiến sĩ trung đoàn quyết tử 950 hy sinh, có một nơi đặt di ảnh trung tướng Nguyễn Bình, hàng năm, bà lên chùa thắp hương, trò chuyện cùng người đã mất. Đó là khoảnh khắc bà tìm lại hạnh phúc trong thanh thản.