“Tiếng hò của ai đó trên sông dài về đêm làm tôi thao thức.
Từng ngày từng ngày tôi lớn lên trong tiếng hát, tiếng nhạc cổ ở quê tôi…”
Trần Kiết Tường sinh tại xã Thới Thạnh, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ vào ngày 10/02/1924 bên bờ sông Ô Môn êm ả. Lớn lên với tiếng ru của mẹ, tiếng đàn tài tử của cha đã nuôi lớn tâm hồn người nghệ sĩ Phương Nam này. Nơi đây, đêm đêm văng vẳng tiếng hò được cất lên từ dòng sông nước. Khi đã là một nhạc sĩ, Trần Kiết Tường tâm sự: “Mình thích nhất tiếng hát ầu ơ ở quê mình. Đằm thắm và hiền hòa làm sao”.
Thuở thiếu thời, Trần Kiết Tường phải xa quê tìm sinh kế. Năm hai mươi tuổi ông sang PhnômPênh, Campuchia dạy học.
Từ mười hai tuổi Trần Kiết Tường đã tập chơi đàn kìm, rồi mandolin với những khúc nhạc cổ như Bình bán vắn, Tây Thi…

Gia đình nhạc sĩ Trần Kiết Tường.
Âm nhạc của Trần Kiết Tường thắm sâu màu sắc nhạc dân gian Nam Bộ. Tiêu biểu là bài Anh Ba Hưng, bắt nguồn từ dân ca Con chim manh manh như: “Con chim manh manh, nó đậu cây chanh. Tôi vác miểng sành liệng nó chết giãy. Tôi làm bảy mâm, biếu ông một mâm, cho bà một dĩa. Bà hỏi con chim gì tôi nói con chim manh manh…”.
Còn bài hát của nhạc sĩ Trần Kiết Tường vừa phổ nhạc xong thì: “Có anh Ba Hưng, vốn thiệt nông dân, lưng lớn ba vùng mà hổng chịu đầu quân. Thằng Sáu thấy anh nó cười. Thiệt thằng nhỏ xíu mà khôn. Nó trêu nó trêu anh hoài. Nó nói cái lưng anh dài, nó nói cái mặt anh chai, thanh niên sao không đi lính, cũng không cấy cày. Anh Ba đỏ mặt tía tai. Về nhà xin đi lính đã hơn năm trường, vừa mới được huân chương. Thằng Sáu thấy anh nó mừng. Láng giềng hỏi thăm sự tình. Tôi nói có anh Ba Hưng…”.
Bài hát với giọng điệu hài hước thật vui, với mục đích khuyến khích trai làng đầu quân. Nhạc phẩm Anh Ba Hưng này được viết ở Rạch Giá với câu chuyện khá thú vị:
Trong một trận đánh Pháp năm 1947, ở đoạn đường Đốc Bét – xóm Lung, bộ đội ta giết nhiều giặc, phá hủy nhiều xe cơ giới, trở thành lá cờ đầu lập chiến công ở huyện Giá Rai – Bạc Liêu, dưới sự chỉ huy của Trung đội trưởng Hứa Quang Hưng. Anh em gọi thân mật là anh Ba Hưng.
Sau trận thắng lớn, đơn vị tổ chức mừng chiến công. Đoàn văn công Nam Bộ đến tham dự liên hoan và cùng biểu diễn văn nghệ, đồng thời cũng là để thực tế sáng tác. Đoàn gồm nhạc sĩ và ca sĩ như: Trần Kiết Tường, Văn Luyến, Tường Thanh, Văn Lưu, Khánh Dân, Quốc Hương…
Qua giới thiệu của anh em về chiến công của người chỉ huy trận đánh này nên Trần Kiết Tường kịp nghĩ lại như thế không có lợi, người nghe sẽ hiểu lầm về đội trưởng Hứa Quang Hưng, bèn sửa lời như mọi người đều biết và kịp chuyển sang đài Tiếng nói Nam Bộ phát sóng. Lời bài hát sửa như sau:
“Có anh Ba Hưng, vốn thiệt nông dân. Đi lính ba năm trường vừa mới được huân chương. Thằng Sáu nó khen anh hoài. Cái thằng nhỏ xíu mà khôn. Nó khen, nó khen anh hoài. Nó nói rằng anh có tài, nó nói mới một năm nay mà anh đã giết Tây hơn trăm thằng. Vừa rồi mới được huân chương. Khen anh giỏi bắn, bắn cây súng trường. Anh giết nhiều Tây. Í a, í a, í a. Nó vô cướp phá, phá tan xóm mình. Láng giềng hỏi thăm sự tình. Tôi nói có anh Ba Hưng…”.
Năm 1954, Trung đội trưởng Hứa Quang Hưng cùng đơn vị tập kết ra Bắc và được cử đi học Trường sĩ quan Pháo binh. Năm 1962, ông được điều về Nam chiến đấu. Năm 1966, khi đến làng cao su Dầu Tiếng thì ông phải lòng cô du kích Nguyễn Thị Hương.
Khi nên vợ chồng, Hứa Quang Hưng được chuyển đi chiến dịch, họ mất liên lạc với nhau từ đó. Khi người nữ du kích này sinh đứa con đầu lòng thì bị giặc bắt, chúng đưa chị đi khắp các nhà tù. Cháu bé được ông bà ngoại nhận về nuôi dưỡng.
Giặc khủng bố, ông bà chạy sang Biên Hòa làm thuê kiếm sống. Sau ngày giải phóng miền Nam, Hứa Quang Hưng trở về tìm lại gia đình. Hỏi thăm mãi mới biết nơi ông cháu trú ngụ. Lúc ấy, nhà chỉ có ông già và cháu gái tám tuổi. Cháu núp bên cạnh cửa, trố mắt nhìn chú bộ đội.
Cha vợ tuổi già mắt kém, không nhận ra chàng rể. Còn chàng sĩ quan Hứa Quang Hưng vốn dí dỏm, cất lên giọng hát: “Có anh Ba Hưng, vốn thiệt nông dân…”. Nghe hát tới đây ông già bật khóc, quơ quơ tay hỏi: “Có phải thằng Hưng đó không?”.
*
Năm 1954, hiệp định đình chiến Genève được ký kết, nhạc sĩ Trần Kiết Tường xuống tàu tập kết ra Bắc, vợ là bà Tố Linh, bế hai con nhìn theo, đưa hai ngón tay hẹn hò ngày gặp lại… mà rơi nước mắt.
Năm 1957, sau khi tiếp quản Thủ đô, tại căn nhà số 96 phố Huế, Hà Nội diễn ra Đại hội thành lập Hội nhạc sĩ Việt Nam, tiền thân là Ban Nhạc Vũ Trung ương, tọa ở số 2 đường Bà Triệu. Đại biểu miền Nam vẻn vẹn chỉ có chín người - nhạc sĩ Trần Kiết Tường là một - trong số hơn bốn mươi hội viên đại biểu đại hội.
Thuở ấy, hội viên Trần Kiết Tường sáng tác rất hăng, có nhiều ca khúc ra đời để lại mãi với thời gian, đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Ấy là: Áo bà ba, Cánh tay miền Nam trên đất Bắc, Bánh xe lăn, Quê hương ơi ta sẽ về… Đặc biệt là tuyệt tác HỒ CHÍ MINH ĐẸP NHẤT TÊN NGƯỜI.
*
Khi không thể nào thực hiện lời hẹn hò “hai năm sau sẽ gặp lại”, vào năm 1957, bà Tố Linh thực hiện “lời hò hẹn” ấy bằng cách vượt đường bộ sang nước Lào, đến Nappie để băng rừng sang Hà Tĩnh… Nhưng giông bão dữ dội đã giữ chân bà. Được tin báo trước, Trần Kiết Tường nóng ruột chờ đón ở trạm tiền tiêu nhưng không gặp được. Trong tâm trí tình yêu thương vợ con, ông đành quay trở lại Hà Nội. Bài Bốn bánh xe tôi lăn ra đời từ đó.
Bài Cánh tay miền Nam trên đất Bắc là bài hát về chủ đề Hà Nội rất đáng được trân trọng. “Thủ đô thân yêu! Ta đã về đây, xây đời hòa bình. Cùng nhau xây đời… Anh muốn chắp cánh bay. Ôm ấp trái tim em, cho lòng người thân yêu…”.
Ca khúc Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người được giới nhạc và cả công chúng yêu nhạc xem đây như là một tuyệt tác trong số hàng trăm tác phẩm viết về Bác. Thế nhưng, buổi ban đầu, theo nhạc sĩ Trương Quang Lục kể: “Có một nhạc sĩ nổi tiếng cho rằng bài hát ấy “mềm yếu không thích hợp khi nói về Người””. Có chết không chứ! Một tác giả tầm cỡ, là thành viên lãnh đạo chuyên ngành mà nhận xét như thế, tác động cỡ nào đến giới nhạc nói riêng và với lớp văn nghệ sĩ nói chung.
Cũng theo nhạc sĩ Trương Quang Lục cho biết: “Một số nhạc sĩ miền Nam chúng tôi thấy lo cho nhạc sĩ Trần Kiết Tường, thế nhưng, anh vẫn bình tĩnh lạ thường”. Qua giọng hát say mê, nhiệt tình của ca sĩ Quốc Hương, bài hát được đông đảo các tầng lớp nhân dân đặc biệt yêu thích và đã bay xa khắp hai miền Nam - Bắc. Bằng những giai điệu hiền hòa, dạt dào tha thiết, rất đỗi thiêng liêng: “Hò ơ ơ… trên xóm làng miền Nam, đau thương mây phủ chân trời, khi ca tên Hồ Chí Minh, nghe lòng phơi phới niềm tin…”
Ca sĩ Quốc Hương đã hát bài này để Bác Hồ nghe lần đầu tiên tại Phủ Chủ tịch. Khi Bác Hồ qua đời, và mãi sau, chuông đồng hồ Bưu điện thành phố Hà Nội hàng ngày vẫn vang vang lên giai điệu Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người chào đón buổi bình minh trên đất Thủ đô. “Bao la hơn những cánh đồng, mênh mông hơn mặt biển Đông, êm đềm hơn những dòng sông…”
*
Những năm cuối đời, nhạc sĩ Trần Kiết Tường mang bạo bệnh, đi lại bằng chiếc xe lăn nhưng vẫn hát khi có bạn bè đến thăm và vẫn sáng tác. Ông nói:
“Tôi sống lạc quan và yêu đời. Nghệ thuật thì vô cùng, đời người thì ngắn ngủi. Chẳng có ai hài lòng với những gì đã đạt được. Đó cũng là điều dễ hiểu. Bởi, nếu ai đó hài lòng thì coi như đã… hết. Cuộc sống sôi động và hấp dẫn. Do đó, nhạc sĩ không được sáng tác những gì mà chính anh không có cảm xúc”.
Nhạc sĩ Trần Kiết Tường đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 29/10/1999. Ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.