Nhân bộ phim “Xích Bích” đã trình chiếu trên cả nước với hàm ý là Tào Tháo sở dĩ muốn đánh Đông Ngô chỉ vì say mê nàng Tiểu Kiều, ái thê của Tôn Quyền. Bài viết này dựa vào lịch sử để biện minh cho Tào Tháo, nhân vật vốn đi vào dân gian với cái nhìn không tốt…
Tào Tháo (155-220) người đất Bái, huyện Tiều (gần huyện Bạc, tỉnh An Huy ngày nay), tự là Mạnh Đức, sống dưới đời vua Linh đế, Phế đế và Hiến đế nhà Hậu Hán (25-220). Ông là một vị anh hùng, văn võ toàn tài, đa mưu túc trí. Ông từng nói với Lưu Bị rằng: “Anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này mà thôi”.
Là Thừa tướng của vua Hiến đế, tước Ngụy vương, Tào Tháo nắm cả binh quyền trong tay, dưới trướng có nhiều tướng giỏi, thế lực rất mạnh, có thể cướp ngôi vua dễ dàng, nhưng ông không làm điều ấy mà để lại cho con là Tào Phi sau này…

Trương Phong Nghị vai Tào Tháo trong phim Xích Bích
Tại sao Tào Tháo không phế Hiến đế để lên làm vua? Có thể vì ba lẽ: Một là ông chưa đủ can đảm làm trái lại ý thức hệ phong kiến, khi tư tưởng “trung quân” còn được đề cao, e ngại lịch sử sẽ phê phán mình là một bề tôi soán đoạt; Hai là uy thế nhà Hậu Hán chưa sụp đổ hoàn toàn, hãy còn nhiều người ngưỡng vọng; Ba là vì tình hình chính trị trong giai đoạn ấy chưa thuận lợi. Nếu ông cướp ngôi vua tức là tạo điều kiện cho Lưu Bị, Tôn Quyền tuyên truyền lôi kéo quần chúng đứng về phe mình, chống lại ông.
Tuy vậy, ông làm Thừa tướng mà có khác gì vua. Hiến đế chỉ là cái bóng mờ sau lưng ông mà thôi.
Xưa nay, người Trung Hoa cũng như người Việt Nam, khi nhắc đến Tào Tháo đều không tiếc lời xỉ vả, nào là đa nghi như Tào Tháo, nào là gian hùng như Tào Tháo, xảo trá, quỷ quyệt như Tào Tháo… Như vậy là người ta đã bỏ qua những cái tốt của họ Tào.
* Tào Tháo là người khôn ngoan, đa mưu túc trí
Lúc chưa thành danh, ông biết nghe lời Tuân Húc, khởi nghĩa Cần Vương, dám đánh Đổng Trác khi thế lực của y đang mạnh. Ông biết gán cho Viên Thuật tội tiếm đế hiệu để đem quân đánh phá, xong rồi chỉ xin làm một Tào hầu thì thật khôn ngoan cực kỳ.
* Tào Tháo là kẻ biết người
Là người có mắt tinh đời, ông biết tài trí của ba anh em Lưu, Quan, Trương khi còn hàn vi. Khi tướng Hoa Hùng, Kiêu kỵ Hiệu úy của Đổng Trác đang làm mưa làm gió, tướng nào của Viên Thiệu ra đánh cũng bị giết, thì Quan Công xin đi đánh. Bấy giờ Quan Công chỉ là một viên mã cung thủ của Lưu Bị chưa có chức tước gì. Viên Thuật quát nạt, Viên Thiệu phân vân, nhưng Tào Tháo nhất mực xin cho Quan Công ra trận vì tin vào tài trí của ông. Quả nhiên, khi Quan Công đem đầu Hoa Hùng về thì rượu mời còn nóng.
Tào Tháo biết Từ Thứ là một mưu sĩ giỏi nên dùng mẹ họ Từ kêu gọi Từ bỏ Lưu Bị về giúp mình. Tuy Từ Thứ quyết giữ lòng trung, không hề bày mưu tính kế cho Tào Tháo nhưng ít ra cũng bớt đi đối phương của Lưu Bị một mưu sĩ lỗi lạc.
* Tào Tháo là người có đức khoan dung
Trần Lâm, một nhà văn nổi tiếng trong nhóm “Kiến An thất tử”, lúc về dưới trướng Viên Thiệu, thường thay Thiệu viết hịch vạch tội Tào Tháo. Có lần, Lâm lôi cả ông bà, cha mẹ Tháo ra mà chửi, hay đến nỗi Tháo đang nhức đầu, đọc xong bài hịch, toát mồ hôi mà khỏi bệnh.
Thiệu bại, Lâm bị bắt. Tháo hỏi: “Nếu tôi ác thì ông chửi một mình tôi là đủ, cớ sao ông lại đụng đến tổ tiên tôi?”. Lâm tạ tội, nói: “Mũi tên đã đặt lên cung, thế tất phải bắn thôi”. Tháo chẳng những không giết Lâm lại còn cho làm quan thảo thư hịch. Tháo có bệnh nhức đầu, mỗi lúc lên cơn thì nằm đọc văn Lâm và nói: “Văn này giúp ta khỏi bệnh đây”. Rồi trọng thưởng cho Lâm. Như thế, Tào Tháo có đức khoan dung.
* Tào Tháo là người trọng nghĩa
Khi Quan Vân Trường bị vây ở Thổ Sơn, Tào Tháo sai Trương Liêu đến dụ hàng. Quan Công đưa ra ba điều kiện:
1. Chỉ đầu hàng nhà Hán chứ không đầu hàng Tào Tháo.
2. Khi nghe Lưu Bị ở đâu thì có quyền bỏ đi theo ngay.
3. Nhị tẩu (hai bà chị dâu, vợ Lưu Bị) phải được cấp dưỡng và chỉ một mình ông có quyền săn sóc hầu hạ.
Họ Tào chấp thuận hết vì tin rằng sự đối xử khôn khéo của mình (ba ngày tiệc nhỏ, năm ngày tiệc lớn, lên ngựa thưởng vàng, xuống ngựa thưởng bạc…) sẽ mua chuộc được Quan Công. Không ngờ, khi được tin Lưu Bị, Quan Công vội bỏ đi ngay, lại còn “quá ngũ quan, trảm lục tướng” làm cho Tào Tháo mất sáu viên tướng giỏi. Tuy vậy, Tháo vẫn trọng lời hứa chẳng những không sai quân đuổi theo bắt lại, mà còn cho người cưỡi ngựa chạy theo đưa giấy thông hành và lộ phí. Vậy Tào Tháo là người trọng nghĩa.
* Tào Tháo không cướp ngôi
Nắm hết quyền bính và quân lực trong tay mà không cướp ngôi, Tào Tháo đã hơn hẳn bọn Vương Mãng và Lưu Dụ.

Lâu thuyền trong trận chiến Xích Bích
Như vậy, nếu nhận xét về Tào Tháo mà chỉ nêu cái xấu mà bỏ qua cái tốt thì bất công và oan cho Tào Tháo. Đó là nỗi oan thứ nhất.
Nỗi oan thứ hai của Tào Tháo là vụ đài Đồng Tước. Vào tuổi ngũ tuần, Tháo sai xây một cái đài nguy nga, tráng lệ trên bờ sông Chương ở quận Nghiệp (nay thuộc huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam) để di dưỡng tuổi già. Trong lúc đào móng, thợ bắt gặp một con chim sẻ bằng đồng nên Tháo đặt tên đài là “Đồng Tước”.
Đài xây xong, tuyệt đẹp, Tháo hài lòng lắm, con trai Tháo là Tào Thực – một thi tài lỗi lạc trong nhóm “Kiến An thất tử” lúc bấy giờ - làm một bài phú để ca ngợi vẻ đẹp của đài này. Tào Thực làm bài “Đồng Tước đài phú”, trong đó có câu:
“Liên nhị kiều ư đông tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống”
Nghĩa là:
Bắc hai chiếc cầu nối từ đông sang tây
Nổi lên như cái cầu vồng giữa lưng chừng trời
(Chữ “nhị kiều” ở đây chỉ có nghĩa là hai chiếc cầu).
Năm 13, niên hiệu Kiến An (Hán Hiến đế) tức năm 208 dương lịch, từ đất Giang Lăng, quân của Tào Tháo đuổi đánh Lưu Bị rất gấp, tình thế hết sức ngặt nghèo. Lưu Bị sai Khổng Minh cầu cứu Tôn Quyền, nhưng Chu Du, đô đốc Đông Ngô do dự. Khổng Minh bèn khích Chu Du:
– Nếu ngài không giúp Thục, mai kia Thục mất, Tào Tháo sẽ đánh Đông Ngô. Tào Tháo thường nói xây đài Đồng Tước để khi chiếm được Đông Ngô thì sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiểu về nhốt ở đó để vui thú tuổi già, lúc ấy có hối cũng không kịp. (Đại Kiều là vợ Tôn Sách, anh Tôn Quyền, trước là chúa Đông Ngô; Tiểu Kiều là vợ Chu Du, hai cô gái tuyệt đẹp đất Giang Đông).
Chu Du không tin. Khổng Minh bèn đọc vanh vách bài phú “Đồng Tước đài” của Tào Thực, nhưng đến câu trên đây thì sửa lại như sau:
“Lãm nhị Kiều ư đông nam hề
Lạc triêu tịch chi dữ cộng”
Nghĩa là: Bắt hai nàng Kiều ở đông nam về để sớm chiều cùng vui thú (Chữ “nhị Kiều” ở đây trở thành hai nàng Kiều, tức Đại Kiều và Tiểu Kiều).
Chu Du nộ khí xung thiên, liền cất quân đánh Tào Tháo, đốt sạch chiến thuyền và 80 vạn quân Tào trong trận Xích Bích (năm 208).

Kim Thành Vũ vai Gia Cát Lượng trong phim Xích Bích
Đến đời Đường, thi sĩ Đỗ Mục (803-853) làm bài thơ “Xích Bích hoài cổ”, trong đó có hai câu:
“Đông Phong bất dữ Chu Lang tiện Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều” 東 風 不 與 周 郎 便 銅 雀 春 深 鎖 二 嬌 Trần Trọng San dịch Gió đông không giúp Chu Lang, Khóa xuân Đồng Tước đã giam hai Kiều. |
Và Nguyễn Du cũng có hai câu trong bài “Đồng Tước đài”:
“Chỉ hận tằng đài không luật ngột, Tiểu Kiều chung lão giá Chu Lang”. 只 恨 層 臺 空 葎 軏 小 嬌 終 老 嫁 周 郎 Chỉ giận dựng lên đài chót vót, Tiểu Kiều vẫn cứ vợ Chu Lang. |
Như trên đã nói, bài phú “Đồng Tước đài” do Tào Thực viết chứ không phải Tào Tháo, nên ý trong bài là của Tào Thực. Lúc xây đài Đồng Tước, Tào Tháo tuyệt nhiên không có ý bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều về nhốt trong đài này để vui thú tuổi già, mà đây chỉ là cái mưu của Khổng Minh để khích Chu Du.
Vả chăng lúc bấy giờ, Tào Tháo quyền nghiêng thiên hạ, lấn át cả vua, lại giàu có muôn triệu, muốn bao nhiêu mỹ nữ chẳng được, sá gì hai người đàn bà đã có chồng ở Giang Đông. Quả thực là oan Tào Tháo!