Phổ Nghi là con của Thuần Thân Vương Tái Phong (1), sinh ngày 7/2/1906, năm Quang Tự thứ 32 triều Mãn Thanh. Khi ông lên ba (1908), Từ Hy thái hậu và vua Quang Tự đều lâm bệnh nặng. Từ Hy đột nhiên quyết định đưa ông lên làm Hoàng đế. Sau khi ông vào cung được ba ngày, vua Quang Tự và Từ Hy lần lượt qua đời.
• ĐĂNG QUANG VÀ THOÁI VỊ
Ngày 2/12/1908, Phổ Nghi chính thức lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Tuyên Thống, ông vua cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Hoa. Làm vua được ba năm thì xảy ra cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn (Tôn Văn) lãnh đạo khiến ông phải thoái vị.
Phổ Nghi viết: “Sau này, các thành viên trong gia đình kể lại cho tôi nghe chuyện đăng quang vì lúc ấy tôi còn bé quá. Ngày 20 tháng 10 năm Quang Tự thứ 34, tôi được chọn làm Hoàng đế. Năm ấy, tôi mới ba tuổi, gào khóc, không chịu để cho nội giám ôm mình vào cung. Nội giám đau khổ nhìn quân cơ đại thần chờ lệnh, quân cơ đại thần nhìn Nhiếp chính vương (tức là Tái Phong, cha tôi), nhưng Nhiếp chính vương chỉ biết gật đầu chứ không biết phải làm thế nào.
Ngay lúc ấy, nhũ mẫu thấy tôi khóc lóc đáng thương quá, liền đem bầu vú đến cho tôi, nhờ đó mà ngăn được tiếng khóc của tôi. Quân cơ đại thần và cha tôi cuối cùng quyết định để nhũ mẫu ôm tôi cùng đi, vào cung thì đưa tôi cho thái giám ẵm vào gặp Từ Hy Thái hậu.
Khi đó, tôi đứng giữa những người xa lạ, trước mặt tôi là một khung cảnh âm u, phía sau bức màn lộ ra một khuôn mặt gầy gò hốc hác trông phát sợ, đó chính là Từ Hy Thái hậu. Thấy Từ Hy, tôi khóc ré lên, khắp người run lẩy bẩy. Từ Hy gọi người đem quả bầu đường phèn đến, bị tôi ném xuống đất, lại còn khóc lớn hơn nữa. Điều đó làm cho Từ Hy rất không vui. Bà nói:
- Thằng bé hư quá! Đưa nó đi chơi đi.
Ngày 2 tháng 12, tiến hành việc đăng cơ. Đại lễ được tổ chức ở điện Thái Hòa. Các thị vệ và bá quan đưa tôi đến điện này. Họ đặt tôi lên ngai vàng vừa cao vừa to. Cha tôi quỳ gối xuống đất, hai tay đỡ tôi không cho tôi cựa quậy, nhưng tôi khóc ré lên:
- Con không chịu ở đây đâu. Con muốn về nhà.
Cha tôi lúc đó vã cả mồ hôi, chỉ còn biết dỗ dành. Ông nói:
- Đừng khóc, đừng khóc, sắp xong rồi, sắp xong rồi.
Sau khi đại lễ kết thúc, các quan thì thầm:
- Tại sao lại nói “sắp xong rồi?”, lại còn “muốn về nhà” nữa chứ!
Họ cho đó là điềm gở và ứng vào việc ba năm sau nhà Thanh mất ngôi”.

Phổ Nghi khi là Hoàng đế Mãn Châu Quốc. Nguồn: wikipedia.org.
• ĐỜI SỐNG TRONG CUNG SAU KHI MẤT NGÔI
Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thành công. Chính phủ Trung Hoa dân quốc thành lập. Tôn Văn được bầu làm Đại Tổng thống lâm thời, đóng đô ở Nam Kinh (29/12/1911). Lê Nguyên Hồng làm Lâm thời Phó Tổng thống. Ngày 12/2/1912, Hoàng đế Phổ Nghi thoái vị, Tôn Văn từ chức Đại Tổng thống, Tham nghị viện cử Viên Thế Khải làm Lâm thời Đại Tổng thống. Trong khi đó, Phổ Nghi và hoàng gia tiếp tục sống cuộc sống đế vương trong cung cấm thêm 12 năm nữa, tất cả chi phí đều do chính phủ Dân quốc đài thọ, mỗi năm bốn triệu bạc, theo một thỏa ước giữa chính phủ Dân quốc và nhà Thanh.
Ngày 5/11 năm Dân quốc thứ 13 (1924), Phùng Ngọc Tường trục xuất Phổ Nghi ra khỏi Tử Cấm Thành. Chín giờ sáng hôm ấy, khi Phổ Nghi đang dùng điểm tâm với Hoàng hậu Uyển Dung thì Tào Dung, nhân viên phòng Nội trị ở Hoàng cung, hộc tốc chạy vào la lớn:
- Tâu Bệ hạ, Phùng Ngọc Tường cho người tới nói họ hủy bỏ thỏa ước cũ cùng hoàng gia và buộc Bệ hạ phải rời khỏi hoàng cung trong vòng ba giờ.
Thật là một tin sét đánh. Gấp thế, chuẩn bị sao kịp. Còn tài sản và Thái hậu, Thái phi, biết tính sao đây? Trong khi Phổ Nghi còn đang bối rối, chưa biết xoay xở thế nào thì Tào Dung lại chạy vào, vẻ mặt kinh hoàng như chưa từng thấy bao giờ:
- Họ đang đuổi chúng ta khỏi Tử Cấm Thành. Chỉ còn hai mươi phút nữa thôi, nếu chúng ta không rời khỏi Cấm thành, họ sẽ bắn đại bác vào.
Thấy nỗi kinh hoàng của các hoàng thân, Phổ Nghi đành chấp nhận lời yêu cầu của họ và dọn về phủ của cha ông. Ở đây được mấy ngày, ông tìm cách lánh mình vào sứ quán Nhật Bản.
• LÀM HOÀNG ĐẾ BÙ NHÌN Ở MÃN CHÂU QUỐC
Đầu tiên, Phổ Nghi giả bệnh để trốn vào một bệnh viện Đức trong khu tô giới rồi đang đêm đi bằng xe ngựa đến sứ quán Nhật cách đó chừng nửa cây số. Tại đây, ông được người Nhật tiếp đón hết sức ân cần, tử tế. Các sĩ quan Nhật nói rằng, ông nên sớm đến Thiên Tân để chuẩn bị ra nước ngoài ngay vì nếu cứ ở lâu trong sứ quán thì không tiện. Ông thấy có lý nên đồng ý ra đi và không ngờ phải lưu lại Thiên Tân đến bảy năm. Trong thời gian này, Thục phi Văn Tú xin ly dị, năm 1931. Bấy giờ, Nhật đã chiếm Mãn Châu và quân đội Nhật chuẩn bị sử dụng Phổ Nghi làm Hoàng đế bù nhìn. Các sứ quân tại đây như bè đảng Trương Tác Lâm ủng hộ Nhật. Nhưng đến năm 1928, Lâm lại khó bảo nên ngày 4/6/1928 Nhật đã giết Lâm bằng cách cho nổ tung đoàn xe của y.
- Tháng 10/1931, Phổ Nghi đến Mãn Châu. Ngày 23/2/1932, đại tá Nhật Itagaki Seishiro mời Phổ Nghi đến gặp. Ông báo cho Phổ Nghi biết việc thành lập một quốc gia mới là Mãn Châu Quốc và đề nghị Phổ Nghi làm chủ tịch Ủy ban Hành pháp của quốc gia này. Nhà vua nổi giận:
- Quốc gia này là cái gì? Như vậy, chẳng hóa ra không phải khôi phục lại nhà Thanh sao?
- Dĩ nhiên là thế. Bây giờ chưa phải lúc khôi phục nhà Thanh. Đây là một quốc gia mới và Hội đồng Quản trị miền Đông Bắc đã công nhận ngài là Chủ tịch nước.
- Tôi rất cảm ơn sự giúp đỡ của quốc gia các ông, nhưng tôi không thể chấp nhận làm Chủ tịch một chính thể Cộng Hòa. Tổ tiên tôi đã phong cho tôi một vương hiệu mà nếu tôi từ bỏ nó thì tôi là đồ bất hiếu.
Cuộc tranh luận kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ mà vẫn không đi đến kết quả.
Để giảm bớt căng thẳng, tối hôm đó Phổ Nghi mở tiệc đãi Itagaki. Lúc ra về, thầy của Phổ Nghi là Giang Tiểu Chu nhắc Phổ Nghi rằng, nếu nặng lời với người Nhật thì nguy hiểm lắm, cái gương Trương Tác Lâm vẫn sờ sờ trước mắt. Các quan lại chung quanh cũng hết lời năn nỉ Phổ Nghi hãy tạm thời chấp nhận, nếu sau một năm mà đế chế không được khôi phục thì sẽ tìm cách rút lui. Phổ Nghi đành thở dài đồng ý.
Chiều ngày 24/2/1932, đại tá Itagaki tổ chức tiệc mừng Phổ Nghi đã bằng lòng làm “chủ tịch” quốc gia bù nhìn của Nhật là Mãn Châu Quốc. Vào giữa tháng 7/1933, quan tư lệnh kế nhiệm của quân Quan Đông là Hishikari Takashi đã long trọng báo cho Phổ Nghi biết chính phủ Nhật Bản chuẩn bị công nhận ông là “Hoàng đế Mãn Châu Quốc”. Ông rất mừng.
Ngày 1/3/1934, Phổ Nghi lên ngôi lấy hiệu là Khang Đức. Là vua, nhưng Phổ Nghi không được quyền ra khỏi cổng. Một hôm, ông cùng Uyển Dung và hai cô em gái định đi dạo chơi ở công viên nhưng sen đầm Nhật đã yêu cầu ông quay lại. Từ đó, ông không bao giờ được ra khỏi cổng, thật chẳng khác một tên tù. Năm 1937, Nhật gây chiến tranh trên toàn cõi Trung Hoa, bao nhiêu tài nguyên và nhân lực của Mãn Châu phải dồn hết cho Nhật, nhưng cuộc chiến Thái Bình Dương đã làm cho Nhật hao binh tổn tướng nặng nề. Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở phương Tây, Đức và Ý đạt được những thắng lợi ban đầu nhưng dần dần lâm vào thế thủ, nhất là sau khi Hitler tung quân vào lãnh thổ Liên Xô. Ở phương Đông, từ năm 1944, Nhật bại trận liên tiếp và nguy cơ quân Quan Đông bị tiêu diệt có thể tính từng ngày. Tháng 8/1945, Liên Xô chính thức tuyên chiến với Nhật. Sau khi hai quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki, ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Phổ Nghi được quyết định đưa sang Nhật. Một chiếc máy bay nhỏ đưa ông đến Thẩm Dương chờ một chiếc máy bay lớn hơn bay sang Nhật. Giữa lúc ấy thì một đoàn phi cơ Liên Xô ào đến. Lính Liên Xô cầm súng nhảy ra khỏi máy bay và tước khí giới của lính Nhật. Sáng hôm sau (17/8/1945), Phổ Nghi bị đưa lên một máy bay Xô Viết và bay thẳng đến Liên Xô.
• MƯỜI BỐN NĂM CẢI TẠO
Năm năm ở Liên Xô: Ở Liên Xô, Phổ Nghi được đối xử tử tế. Trong phòng giam có radio để nghe, sách báo Trung Quốc để đọc, có vài bàn mạt chược để tiêu khiển. Mỗi ngày được ăn ba bữa với các món ăn Nga rất phong phú và buổi tối uống trà theo kiểu Nga. Ngoài ra, còn có bác sĩ và y tá đến chăm sóc sức khỏe. Buổi tối, người ta xúm quanh bàn “cầu cơ” hỏi xem chừng nào họ được thả về. Giữa tháng 8/1946, tại tòa án quốc tế Viễn Đông, Phổ Nghi được gọi ra làm nhân chứng. Vì căm thù người Nhật, ông đã buộc tội quân Nhật thật nặng nề nhưng không hề nói về tội lỗi của mình.
Chín năm ở Trung Quốc: Ngày 31/7/1950, một chiếc xe hỏa Liên Xô chở tội phạm chiến tranh Mãn Châu trả về Trung Quốc. Chuyến xe đưa phạm nhân đến trại cải tạo Phú Thuận. Họ sống ở đây hơn hai tháng rồi được đưa đến trại cải tạo Cáp Nhĩ Tân. Tại đây, Phổ Nghi bị hỏi cung nhiều lần, những điều tra viên dày dạn kinh nghiệm đã hỏi ông những câu thật khó trả lời.
Đặc xá: Ngày 14/9/1959, Chủ tịch Mao Trạch Đông kiến nghị Ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc đặc xá tội phạm chiến tranh trong đó có Phổ Nghi. Ngày 17/9, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ ký lệnh đặc xá. Một buổi sáng, các tội phạm được thông báo tập họp, đại biểu của Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao đọc danh sách đặc xá mà người đứng đầu là Ái Tân Giác La Phổ Nghi. Tháng 3/1960, Phổ Nghi được bố trí làm việc tại vườn sinh học Bắc Kinh. Tháng 3/1961, ông đến làm việc tại Ban Nghiên cứu tư liệu Văn sử học rồi được cử làm Ủy viên Ủy ban toàn quốc Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp).
• NHỮNG CUỘC HÔN NHÂN
Phổ Nghi có đến năm người vợ nhưng không có con nối dõi vì chứng bất lực. Năm Phổ Nghi 15 tuổi, các hoàng thân, theo lệnh của Thái hậu, bảo Phổ Nghi đã đến lúc phải lập hậu rồi và cho ông chọn vợ. Kết quả Uyển Dung trở thành Hoàng hậu và Văn Tú làm Thục phi.
- Hoàng hậu Uyển Dung (1906-1946): Cưới năm 1922, năm đó Uyển Dung 17 tuổi, cùng tuổi với Phổ Nghi. Lễ cưới xong, nhà vua về “hỉ phòng” trong Khôn Ninh cung, thấy cô dâu ngồi trên giường, đầu cúi phủ khăn đỏ, mọi vật trong phòng đều màu đỏ giống như một vũng sáp đèn cày tan chảy. Ông cảm thấy rất ngột ngạt liền mở cửa chạy về điện Dưỡng Tâm. Đêm tân hôn của nhà vua diễn ra như thế.
Khi bị Nhật đưa sang Mãn Châu, Phổ Nghi cũng đem Uyển Dung theo. Cuộc sống của nàng ở đấy rất buồn vì chẳng mấy khi nhà vua đoái hoài đến. Thế là nàng làm bạn với ả phù dung rồi sinh ra nghiện ngập. Tại đây, Uyển Dung tiếp xúc với Lý Thiên Vũ là đặc vệ (có sách nói là tài xế) của Phổ Nghi rồi sinh cảm tình. Như tiếng sét tận trời cao, một hôm Phổ Nghi được tin Uyển Dung đã có thai mấy tháng. Sau đó, Phổ Nghi kín tiếng chuyển ngay người họ Lý kia đi nơi khác. Khi sinh, bên cạnh Uyển Dung không hề có bác sĩ hay y tá nào cả, chỉ có bà bảo mẫu giúp cho nàng sinh nở. Sinh xong, Phổ Nghi vứt ngay đứa bé vào lò lửa. (Điều này Phổ Nghi có viết trong hồi ký của mình nhưng lần in đầu bị cắt bỏ). Từ đó, Phổ Nghi không bao giờ đến phòng Uyển Dung nữa. Hoàng hậu sống cô độc một mình chẳng khác nào bị đày vào lãnh cung, ngày càng nghiện nặng, luôn luôn nằm một chỗ. Sau khi, Nhật đầu hàng, Uyển Dung chết dưới một mương nước thật thảm hại. Năm ấy, nàng mới 40 tuổi.

Quách Bố La Uyển Dung khi còn là cô bé. Nguồn: Internet.
- Thục phi Văn Tú (1909-1953): Cũng cưới năm 1922. Theo Phổ Nghi thì Văn Tú rất có văn tài, nhưng luôn bất hòa với Uyển Dung. Mỗi lần Phổ Nghi đến phòng Văn Tú thì Uyển Dung tỏ ra không vừa ý và gây sự. Một hôm, Uyển Dung đang ngồi trong sân, Văn Tú đi ra cổng, và không biết vô tình hay cố ý, nhổ một miếng nước bọt. Uyển Dung biến sắc, lên mách chuyện, Phổ Nghi gọi Văn Tú đến mắng một trận. Chịu không nổi sự chuyên chế của Uyển Dung và của cả Phổ Nghi, Văn Tú đòi ly hôn, còn Uyển Dung thì nói: “Tôi và Văn Tú, có cô ấy thì không có tôi”. Cuối cùng Phổ Nghi đành chấp nhận ly hôn (1931). Nghe nói sau này Văn Tú lấy một người thợ mộc, kết cục cũng chẳng tốt đẹp gì.
- Tường quý nhân Đàm Ngọc Linh (1920-1942): Cưới năm 1937, được Phổ Nghi sủng ái nhất. Đàm Ngọc Linh thông minh, xinh đẹp, lại có tư tưởng yêu nước nên vợ chồng rất tâm đầu ý hợp. Phổ Nghi chịu nhiều ảnh hưởng từ Ngọc Linh. Năm năm sau nàng mất. Cái chết của nàng là một điều bí ẩn. Nàng bị bệnh thương hàn, theo một bác sĩ Trung Quốc, lẽ ra không phải chết như vậy. Lúc đó, một người Nhật là Kichi Mouyasuchoku nói hắn muốn “săn sóc” nàng. Dưới sự chăm sóc của y và những hộ lý Nhật, ngay ngày hôm sau nàng đột ngột từ trần.
Phổ Nghi nhớ lại nàng thường nói với ông về sự bạo hành và ngang ngược của người Nhật ở phía nam Trường thành khi nàng còn học ở Bắc Kinh. Ông ngờ rằng, người Nhật đã nghe lén những cuộc nói chuyện ấy và họ đã xuống tay.
- Phúc quý nhân Lý Ngọc Cầm (1928-2001): Cưới năm 1943, lúc mới 15 tuổi, đã trở thành vật hy sinh thứ tư. Cô ta vào cung chưa đến hai năm thì chính quyền Ngụy Mãn sụp đổ. Trong lần tan vỡ đó, Phổ Nghi trở thành tội phạm, còn Ngọc Cầm bị đưa về Trung Quốc giam giữ rồi ly hôn năm 1958 khi ông đang còn trong trại cải tạo.
- Lý Thục Hiền (1925-1997): Năm 37 tuổi, Lý Thục Hiền trở thành người vợ thứ năm của Phổ Nghi. Bấy giờ, nàng là hộ lý Bệnh viện liên hợp khu Triều Dương Bắc Kinh. Trước khi về với Phổ Nghi, Lý Thục Hiền đã có hai đời chồng và một thời gian làm ở vũ trường. Do bà mẹ kế rất độc ác nên nàng bỏ nhà lên Thượng Hải làm vũ nữ để kiếm sống. Ngày 21/4/1962, hai người đăng ký kết hôn và ngày 30/4/1962 thì làm đám cưới.
Vì Phổ Nghi bị chứng bất lực, không thể làm tròn bổn phận người chồng nên cuộc sống vợ chồng thường hay lục đục.
• NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA PHỔ NGHI
Năm 1967, Phổ Nghi vào nằm viện ở Bắc Kinh. Ba năm trước, các bác sĩ Trung Quốc cho biết là ông đã bị ung thư thận. Thời kỳ này, ông thường đi tiểu ra máu. Thủ tướng Chu Ân Lai đã gọi điện đến Giám đốc Bệnh viện bảo rằng đây là một nhân vật đặc biệt, cần phải chăm sóc tử tế. Bác sĩ và y tá đã sợ hãi vâng lệnh.
Tháng 6/1966, Trung Quốc xảy ra cuộc Cách mạng văn hóa khiến cho xã hội hỗn loạn, những lần viếng thăm của Lý Thục Hiền cũng thưa dần. Đám Hồng vệ binh ngoài phố tràn vào bệnh viện, muốn mang Phổ Nghi đi để trừng phạt và có lẽ sẽ giết ông. Nhưng nhóm Hồng vệ binh trong bệnh viện đã bảo vệ bệnh nhân bằng vũ lực khiến đám quá khích phải rút lui.
Giữa lúc ấy, một bà phi cũ trẻ đẹp của ông là Lý Ngọc Cầm và chị dâu của nàng từ miền Đông Bắc tới cũng vào Bệnh viện. Họ mang băng đỏ trên tay giả làm Hồng vệ binh để đi đường cho dễ. Lý Ngọc Cầm cằn nhằn rồi la hét, buộc tội Phổ Nghi đã làm hại đời nàng, cho rằng ông viết cuốn Nửa đời đã qua đã lôi nàng xuống bùn cùng với ông và đòi chia tiền nhuận bút. Cuối cùng, bà moi được của ông 200 quan (2)…
Tình trạng của ông ngày càng xấu và ông qua đời lúc 2 giờ 15 ngày 17/10/1967, thọ 61 tuổi, trước khi Lý Thục Hiền được báo tin. Nắm tro tàn của ông được đem chôn ở nghĩa trang Bát Bảo Sơn, cách Bắc Kinh 30 cây số.
Cuộc đời của Phổ Nghi vừa phi thường vừa bi tráng. Cái hạnh phúc nhất đời của người đàn ông, ông cũng không được hưởng. Ông đã đi từ tột đỉnh vinh quang đến tận đáy xã hội. Từ địa vị một Hoàng đế bỗng chốc ông trở thành vua bù nhìn trong tay người Nhật, rồi một kẻ tội đồ với 14 năm trong trại cải tạo, cuối cùng trở thành công dân chân chính được Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai biệt đãi. Sáu mươi mốt năm với biết bao đắng cay, vinh nhục đã in hằn dấu vết trên con người bất hạnh này.
Sách tham khảo:
- Phổ Nghi, nửa đời đã qua (Hồi ký của Phổ Nghi - Nhóm Đông phương học dịch).
- Hoàng đế cuối cùng (Hồi ký của Phổ Nghi - Nguyễn Mạnh Thảo dịch).
- Phổ Nghi - Lần hôn nhân cuối cùng của Giả Anh Hoa (Hồi ký của Lý Thục Hiền - Đoàn Như Trác dịch).
Chú thích:
(1) | Cũng viết Tải Phong. |
(2) | Theo cuốn Hoàng đế cuối cùng. |