Thơ Hà Đình Cẩn

Hà Đình Cẩn là phóng viên chiến trường. Dễ anh đã viết hàng ngàn bài báo trong chiến tranh và sau chiến tranh. Nhưng anh vẫn còn một mơ ước là mình sẽ gởi lại một cái gì cho đời, sau những bài báo dù rất hữu ích, nhưng người đời chắc rồi sẽ quên. Những bài thơ của Hà Đình Cẩn làm động lòng người đọc. Làm người ta nghĩ ngợi về con người, về cõi đời… Làm người ta tự soi rọi vào nơi sâu thẳm của lòng mình và thương cảm cùng với anh.

Chao ôi cuộc đời! Nó không đơn giản một chút nào. Nó có cái lớn lao và nhỏ nhoi, cái lặng thầm, giọt nước mắt chảy vào trong và sự cam chịu số phận. Nhưng trên tất cả, là lòng xót thương, nhân hậu, tin yêu…. Thơ Hà Đình Cẩn nói tất cả những cái đó với ta. Anh nói về mẹ, về người lính, về người yêu, về một cô bé tình cờ tiễn đưa một đoàn quân ở một sân ga vắng…

Cái độc đáo nằm ở chỗ những trải nghiệm thấm thía ấy của đời anh, anh đã biết chắt lọc, nung nấu và viết ra hàm súc, cô đúc, nhiều sức gợi… Thơ quý ở hàm súc, đọc xong bài thơ, tình cảm còn lan xa mãi. Nếu lời hết mà tình cũng hết, người thơ vô tình đi qua chẳng làm ai xót lòng, động lòng… thì thơ ấy còn chưa tới được bến bờ thơ!

Rất may là Hà Đình Cẩn không trượt vào cái vết xe đổ đó. Anh đã tìm cho mình một cách nói, một cách thể hiện. Anh cắt những nhát cắt vào đời, vào tâm hồn và làm người ta suy ngẫm thấm thía.

Thơ anh do đó độc đáo và hay. Anh tới gần được cái dung dị mà sâu lắng của những nhà thơ cổ điển.

Anh đã từng làm sân khấu: cái nghiệp “khép bức màn nhung, danh vọng hết” (*). Biết đâu cái nghiệp thơ, cái nghiệp sau cùng muộn màng, lại như một cánh chim hồng còn lưu lại dấu chân trên bùn đất của đời anh (**).

MAI QUỐC LIÊN

Người lính

Tiếng có là tôi
Giữa đội hình tiểu đội
Mười hai tiếng có là A
Ba mươi sáu tiếng có là B
Một trăm hai mươi tiếng có là C
Khối tiếng có hóa quân cờ
Trên bản đồ chiến dịch

Những tiếng có ồn ào chợ vỡ
Chỉ tép với tôm cãi vã mấy năm trời
Rồi những cuộc hành quân sém mặt
Tôi bước giữa hai đầu kéo đẩy
Không thể dừng chân nhặt viên sỏi trong giày

Đánh vài trận bữa cơm lơ ngơ bát đũa

Những tiếng có ngồi im

không muốn xua ruồi

Cả đại đội giờ chỉ còn trung đội

Những tiếng có vô danh nằm lại phía sao rơi

Sau chiến tranh
Tôi đem tiếng có về quê không biết để làm gì
Con gọi bố, tôi vô tình thưa có
Bỗng nghẹn lòng thèm mẹ gọi tên xưa


Mẹ

Anh tôi đi bộ đội, mẹ chạy theo suốt mấy ngày. Đến lượt tôi cũng vậy. Đó là hai lần đi xa nhà của mẹ. Còn suốt cả trăm năm mẹ chỉ quanh quẩn ở làng Tử Du, bới đất lật cỏ vì miếng cơm, manh áo cho con cháu. Không thước đất nào của làng lại không từng thấm mồ hôi của mẹ. Mẹ đã đi xa. Mỗi khi nhớ đến mẹ, con tự răn mình sống sao cho tử tế…

1

Lời mẹ dạy:
Suốt đời không ăn cơm độn
Bưng bát mồ hôi rơi

2

Con ly hôn con làm khổ mẹ
Một mình cùi cũi đồng xa
Nhà vắng nàng dâu mẹ thường mất ngủ
Đêm sáng thu nghe cau rụng cuối vườn

Chiều nay gió bấc về rung cửa
Mẹ thở dài ngồi vá áo cho con

Bàn tay mẹ dũi hoài trên vải cũ
Chỗ rách vai mẹ vá mãi không lành

3

Một trăm năm ngắn lắm mẹ ơi
Chưa qua khỏi đồng làng bóng người đã khuất
Nhà ta nghèo mẹ ngẩn ngơ như đất
Sớm cỏ dưới chân, chiều cỏ đã trên đầu


Tập thơ Ngày đi qua (NXB Văn Học, in năm 2010).

Người đàn bà tôi ruồng bỏ

Về thăm làng trong đêm
Đom đóm lập lòe dẫn lối
Anh ra đồng nằm ngửa mặt nhìn trăng

Trăng trinh bạch
Trăng dịu dàng như chiếc gạc êm
Ấp lên tim anh rỉ máu
Đồng làng rộng mà hẹp nơi ẩn náu
Đất thờ ơ với kẻ bội tình

Ngày ấy trẻ trung
Ngày ấy giữa quê mình
Em tội tình gì đâu mà anh ruồng bỏ
Anh khao khát những chân trời bỡ ngỡ
Em cúi mặt giữa làng chịu tiếng chồng chê

Qua ngày
Qua tháng đam mê
Anh bạc tóc, em ngẩn ngơ như đất
Cứ thế, hai phương trời xô lệch
Hạnh phúc cầm tay
Hạnh phúc lại đi tìm 


Gửi Huế

Tặng M.

Chẳng thể nào nguôi được
Tiếng dạ Huế dài như đuôi mắt em

Anh khách vãng lai mua vé vào xem thành Nội
Tượng binh uy nghi lặng lẽ đứng nghiêm chào
Chim sẻ bay qua lầu Đông Các
Vàng son thì còn nhưng vắng Nguyễn Du

Không gặp thi nhân thì làm vua vậy
Mặc hoàng bào, ngai vàng anh ngự
Chi hai mươi ngàn đồng chụp ảnh mua vui
Thêm hai mươi ngàn
Mua đủ chín chúa, mười ba vua nhà Nguyễn
Cả triều đại xếp chưa đầy một túi khoác vai

Tiếng dạ Huế dài không xếp vào đâu được
Đường mưa xao xuyến rơi


Phố ga

Phố ga
Anh từng qua
Thời lính sư đoàn chủ lực...
Súng ống mới toanh
Tràn trề sức vóc
Chỉ câu chuyện tình còn bỏ trống cuối trang thư

Chuyện như thật, như hư
Cả vạn quân lên tàu không ai đưa tiễn
Chỉ cô bé bán hàng rong chợt đến
Với chiếc khăn xanh em đứng vẫy cả đoàn người

Chiến tranh
Chiếc đèn kéo quân bốc cháy
Kìn kìn quân đi
Thưa thớt trở về

Phố ga tiễn đưa,
Phố ga đón đợi
Mắt phố buồn hun hút ngàn đêm

Phố ga ngày tôi gặp lại
Con tàu xưa mệt bã. Phố ga buồn
Khói bom tan mặt người ngơ ngác
Phố ga chen vai tìm thân nhân

Phố ga của tôi
Phố ga một thuở
Tôi đi tìm khăn xanh 


Về quê

Thèm ngọn khói rơm trên cánh đồng sau vụ gặt
Anh về làng bắt gặp nắng xiên khoai
Không thể ngủ vì thâu đêm tu hú gọi
Tuổi thơ về
Sợi tóc bạc nhàu rơi


(*)

Thơ Hoàng Như Mai

(**)

Ý thơ Tô Đông Pha