Nhà thơ, nhà viết kịch nói, tuồng… Dũng Hiệp, đã ra đi, hưởng thọ 86 năm (1927–2012) và có 65 năm tuổi Đảng. Anh là cán bộ thời kháng chiến chống Pháp.
Khi địch khủng bố ác liệt sau 1954, anh làm thơ ca ngợi Bác Hồ, chống địch, giữ vững niềm tin cho cán bộ, nhân dân. Anh tự nhận mình là người lính “đặc công” của văn nghệ. Ra Bắc học Đại học Tổng hợp khoa Văn, rồi về làm sân khấu, mải mê sáng tác, công tác mấy chục năm.
Về Nam năm 1975 gặp lại vợ là chị Nguyệt từ Côn Đảo về, hai người cùng sống, cùng công tác tại quận Tân Bình, TP.HCM. Ốm nặng, nằm liệt hàng chục năm, chị Nguyệt và con cháu ra công chăm sóc, nhưng không chống nổi “mệnh trời”, anh đã qua đời và được an táng long trọng tại nghĩa trang Thành phố (Thủ Đức).
Một nghệ sĩ cách mạng, một thi sĩ với những vần thơ già dặn suy tư, một con người hiền lành mà ưa hài hước…, anh Dũng Hiệp ra đi để lại trong lòng bạn bè, gia đình bao thương tiếc. Sinh thời, Chế Lan Viên rất quý mến anh.
“Dưới mỗi ngôi mộ một con người, mai táng cả lịch sử toàn nhân loại” (H.Haine). Anh Dũng Hiệp ra đi, những vần thơ kháng chiến, những bài văn, vở kịch gắn với 30 năm – 70 năm cách mạng của anh, gắn với cả một thời bi tráng của toàn dân tộc, sẽ còn lại trong lòng mỗi người.
Bài thơ Điếu văn cho một người đang sống mà Hồn Việt giới thiệu dưới đây, đầy đủ tính thời sự, khi chúng ta đang thực hiện Nghị quyết 4 của Trung ương. Có thể xem đó là lời Di chúc của một nhà thơ, nóng bỏng, quyết liệt, tâm huyết.
HỒN VIỆT
Điếu văn gửi người đang sống
Tôi viết bài thơ phúng điếu anh
Mắt không nước mắt chảy vòng quanh
Tin buồn anh chết, chưa đăng báo
Anh vẫn còn kia, vẫn mạnh lành.
Phải nói: Anh còn béo tốt hơn
Đời tư ngập ngụa cảnh vàng son
Nhưng anh đã chết từ lâu lắm
Anh chết mà đời chửa bận chôn.
Anh chết từ khi anh đổi thay
Tính toan tìm mối lợi riêng tây
Tình dân, nghĩa Đảng trôi dòng nước
Mê muội hơn người uống rượu say.
Anh mê quyền vị, mê tiền bạc
Cái bả hư danh phỉnh nịnh anh
Đôi mắt nhìn đời: xưa sắc sảo
Bây giờ bỗng hóa kẻ thong manh!
Anh tệ làm chi, tệ quá thôi
Vũng bùn danh lợi rõ tanh hôi
Trăm tôi, ngàn luyện, sao đành để
Lăn xuống bùn dơ, uổng một đời.
Anh để đàn em thất vọng nhiều
Miệng đời mai mỉa biết bao nhiêu
Còn đâu những tháng ngày cao đẹp
Đảng quí, dân thương, bạn mến yêu.
(Anh em đồng đội thương anh lắm
Nghĩa nặng, tình sâu há bỏ đành
Thương lắm, cho nên càng giận lắm
Một đoạn đường đi, mấy đoạn tình).
Thôi chớ buồn chi, chớ tủi chi!
Ngã rồi, lại đứng dậy mà đi
Mạch đời tìm lại nguồn –trong –sáng
Cái lợi – danh kia, sá kể gì.
Phúng điếu thơ này gửi đến anh
Mong anh tỉnh ngộ, kịp hồi sinh
Tình dân, lượng Đảng như trời biển
Hãy tự vươn lên: Cứu lấy mình!
Chó Ngô
Tiếng Quảng Nam mình nói rõ thô
Vần ao mà lại nói vần ô
Có ông Cố vấn đi chơi phố
Dắt chó ngao mà nói chó Ngô
Đà Nẵng, 1955
Dịch thơ Nguyễn Du - 阮 攸 (1765–1820)
Khất thực
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên.
Nguyên văn chữ Hán:
乞食
嶒 崚 長 劍 倚 青 天,
輾 轉 泥 塗 三 十 年。
文 字 何 曾 為 我 用,
饑 寒 不 覺 受 人 憐。
Dịch thơ:
Ăn xin
Tựa kiếm nhìn lên thăm thẳm xanh
Ba mươi năm lội giữa bùn tanh.
Văn chương phù phiếm không no được
Đói rét người thương tủi phận mình.