Giáo sư người Nga chuyên nghiên cứu văn học Việt Nam, N.I.Nikulin, trong công trình Văn học Việt Nam sơ thảo có cho rằng, bài thơ tình đầu tiên trong văn học Việt Nam là bài Xuân nhật tức sự 春日即事(1) của Huyền Quang (1254-1334) thời Trần. Nhưng bài ấy đã được GS Lê Mạnh Thát xác minh là một bài thơ của Trung Hoa chép nhầm vào văn học Việt Nam(2).

|
Bản Phúc Khê |
Bài thơ của Nguyễn Trãi gửi Nguyễn Thị Lộ:
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng,
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn lấy đắp cho cùng(3)
Bài thơ có những từ cổ như loàn đan: mạo muội, dám xin…; cả lòng: cả là lớn, rộng…, cả lòng: rộng lòng…
Thời điểm ấy như ta đã biết, Nguyễn Thị Lộ đã vào kinh làm Lễ nghi học sĩ trong cung vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi thì ở Côn Sơn… Cho nên nói là ngoài ấy (ngoài kinh đô - đối với trong này: Côn Sơn).
Bài thơ nói với ta điều gì?
Trước hết, nó hé lộ cho ta một góc tình riêng, một góc tâm hồn rất đáng yêu, gần như là duy nhất trong 254 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Những bài thơ khác của ông, cả Nôm lẫn Hán, là những bài thơ thế sự, quốc sự, đạo đức, giao hòa với thiên nhiên… Chỉ duy có bài thơ này là bài thơ của Nguyễn Trãi-tình nhân. Người tình nhân ấy là người anh hùng Bình Ngô khai quốc, một nhà chính trị - quân sự, văn hóa vào hàng lỗi lạc nhất của quốc gia và của cả nhân loại nữa (ta nhớ câu của Irene Faber, nhà văn Đức: “Vào thế kỷ XV, châu Âu chưa có một nhân vật nào lớn như Nguyễn Trãi”).
Cái người thương, cái người yêu…, cái người tri kỷ nữa của Nguyễn Trãi… đã phải vào kinh theo lệnh vua. Một cuộc ly biệt đứt ruột. Nghĩa quân thần, luật lệ phong kiến ngày xưa, mệnh vua, vua bắt chết còn phải chết, huống chi là một người thiếp, một người bé mọn. Ngay luật lệ Trung cổ châu Âu, cũng còn có luật “hưởng trinh” (droit de cuissage), nghĩa là lãnh chúa là người được hưởng đêm đầu tiên của cặp vợ chồng nông nô mới cưới. Không rõ làm sao bà Lộ lọt vào mắt của vua Thái Tông, và không hiểu ông vua 20 tuổi này nghĩ gì khi cướp đi người thiếp yêu của vị đại công thần của triều đại - người đã từng bày mưu thắng giặc và góp công cả sáng lập nên triều đình mà Thái Tông là người kế nghiệp! Đây là cả một tấn kịch và về sau là cả một bi kịch.
Và thế là bà Lộ vào cung làm một chức quan là Lễ nghi học sĩ, một chức quan “giữ việc nghi điển, nghi trượng, pháp vật”, “phụ nữ được phong học sĩ là điều rất hiếm”(4). Chức quan ấy rõ ràng không phải là để theo “hầu” vua, ở bên cạnh vua, theo vua đi tuần du… Đủ biết chức quan ấy của bà Lộ chẳng qua chỉ là “hư chức”, chỉ là cái cớ để Thái Tông bắt Nguyễn Thị Lộ vào cung.
Trở lại bài thơ. Nguyễn Trãi ở Côn Sơn nhớ thương biết mấy người yêu. Ông có một chút ghen hờn thường tình của một người yêu: em ở trong cung “đầm ấm” thế, có thương kẻ ở “ngoài nội” này “lạnh lùng”. “Lạnh lùng” thì dễ hiểu, nhưng còn “đầm ấm” với ai khi xa cách người tình! Trong tiếng Việt, từ “đầm ấm” thường chỉ cảnh một gia đình thương yêu, hòa thuận, cơm lành canh ngọt… “cảm giác ấm cúng do quan hệ gần gũi thương yêu nhau - cảnh gia đình đầm ấm” (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, tr.389). Nhưng một chút nghi ngờ trong yêu mến: ông vẫn nghĩ là bà vẫn “thương” ông, thương kẻ vì cách xa nên phải “lạnh lùng”.
Và một tứ thơ đột xuất, vụt hiện: Ở ngoài đó, “ví dầu” - nếu như có chiếc “áo lẻ”, người hãy rộng lòng đem đắp (“cho cùng”: cho cả hai ta? Cho đôi ta cùng đỡ “lạnh” - đỡ cô đơn? Nghĩa ấy có trong ca dao: “Ai đi đợi với tôi cùng/ Tôi còn dở mối tơ hồng chưa xe”. “Ai ơi thương lấy nhau cùng/ Đỗ ngâm ra giá đãi đằng nhau chi”). Chiếc áo lẻ (khác “áo kép”, nghĩa là một chiếc áo mỏng nhẹ, đơn giản, một chiếc áo mặc trong chứ không phải áo khoác ngoài như một chiếc áo chầu của bà Lễ nghi học sĩ?(5). Sự nài xin rất giản dị. Nhưng chiếc áo có hơi ấm của người yêu đó là cả một niềm yêu thương, một trời nhớ thương, một tín hiệu tình yêu vô tận…
Ta chú ý đến ngữ điệu của bài thơ này: nó rõ ràng là sự bày tỏ tình yêu, là sự bình đẳng trong yêu thương giữa hai người nam - nữ, là sự “hạ mình” của một vĩ nhân! Trước một người đẹp, một người yêu thông tuệ, Nguyễn Trãi đã bộc bạch lòng mình một cách chân tình. Ở đây ta không thấy hơi hướng dấu vết gì của vĩ nhân, chỉ thấy tình nhân, một tình nhân đích thực, trọn vẹn. “Dám xin” (loàn đan)(6); ướm: thăm dò, ướm ý, ướm lời, và ướm hỏi; nghĩa là chưa dám nói thẳng ra…
Thơ tình Việt Nam sau Nguyễn Trãi, kể cả thơ thời ta nữa, có bài nào “hiện đại” hơn bài này?
* * *
Về tuổi tác bà Nguyễn Thị Lộ: có thuyết nói bà Lộ theo Nguyễn Trãi đi kháng chiến Lam Sơn, nghĩa là có thể đi vào khoảng 1416 (năm “Hội thề Lũng Nhai” có Nguyễn Trãi tham dự) đến 1427 (năm khởi nghĩa thành công). Nếu thế thì bà Lộ lúc này đã luống tuổi. Nguyễn Trãi lúc này đã khoảng 60, thì bà Lộ bao nhiêu? Và tại sao Thái Tông lại có thể mê một người phụ nữ luống tuổi đến như vậy? Nhà vua thiếu gì…

|
Tờ bìa Ức Trai Di Tập Dòng bên phải: Tự Đức Mậu Thìn thu Dòng giữa: Ức Trai tập Dòng bên trái: Phúc Khê nguyên bản |
Tôi cho rằng, giả thuyết đó khó đứng vững về nhiều phương diện. “Thế sự trai yêu thiếp mọn” 世事𤳆腰妾悶 (Nguyễn Trãi - Bảo kính cảnh giới bài 52 - Quốc âm thi tập). Nguyễn Trãi lấy bà Lộ là “nạp thiếp”, bởi ông đã có vợ rồi (có bà vợ lẽ Phạm Thị Mẫn, có mang, trốn thoát trong thảm họa tru di, sau sinh ra Anh Vũ, được Lê Thánh Tông cho làm tri huyện (1464). “Nạp thiếp”, thì thiếp phải trẻ. Bà mẹ Nguyễn Du, con của một “kế toán trưởng” (câu kê) trong dinh Nguyễn Nghiễm, lúc lấy Nguyễn Nghiễm mới 16 tuổi, còn ông đã 48. “Lão dương” và “thiếu âm”.
Giai thoại Người con gái bán chiếu gon ở Tây Hồ; người con gái “Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ”, tuy là giai thoại, nhưng cũng có thể có phần sự thực là người mà Nguyễn Trãi yêu mới chỉ chừng 16 tuổi! Ngày xưa, 13 tuổi đã có chồng, và gái 30 tuổi “đã toan về già”! Như vậy, Nguyễn Trãi có thể đã lấy bà Lộ, hợp lý nhất là sau khi kháng chiến thắng lợi, và lúc ấy bà rất trẻ (đi kháng chiến gian khổ mà “nạp thiếp”, rồi mang vào ở trong quân dinh - tầng trên thì Lê Lợi, tầng dưới là hai vợ chồng Nguyễn Trãi, như một nhà văn viết trong tiểu thuyết, sao tiện?).
Thế thì lúc Thái Tông mất (1442), bà Lộ nhiều lắm cũng chưa đến 30, cái tuổi mà tình dục học phương Tây cho là ở độ chín mùi nhất của tình dục (còn Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi). Chắc chắn bà Lộ là người hay chữ, cũng có thể là một nghệ sĩ, một thi nhân nữa, nhưng trước hết phải là người rất đẹp. Một người mà vua phải mê, phải dùng quyền lực để đưa vào cung (ta nhớ chuyện Đường Minh Hoàng lấy Dương Quý Phi, vợ của con là Thọ Vương, khó nhọc đến thế nào), hẳn phải là một giai nhân tuyệt thế.l
_____
(1) N.I.Nikulin - Lịch sử văn học Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học dịch, NXB Văn Học 2007, tr.574.
(2) Lê Mạnh Thát: Về tác giả bài thơ “Xuân nhật tức sự”, Tạp chí Văn Học, số 1/1984, tr.164-167. Bài Xuân nhật tức sự 春日即事 như sau:
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả lân vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình trâm bất ngữ thì
二八佳人刺繡持
紫荊花下轉黃鸝
可憐無限傷春意
盡在停針不語時
“Giai nhân đôi tám ngồi thêu
Dưới dàn kinh tía oanh chào líu lo
Cảm thương xuân ý vô bờ
Là khi không nói thẫn thờ dừng kim”
(Theo một bản dịch cũ)
(3) Xem Nguyễn Trãi toàn tập - Tân biên, tập 3, tr.1103 (bài 209). Trung tâm Nghiên cứu Quốc học biên khảo, NXB Văn Học, 2000.
(4) Đỗ Văn Ninh - Từ điển chức quan Việt Nam, tr.400, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2002.
(5) Cụ Đào Duy Anh chú là cái áo thừa, áo không vào bộ thì có lẽ cũng cùng ý ấy. Còn chú: “chỉ cái áo lẻ loi, đơn chiếc, mà cũng là chỉ cảnh lẻ loi, cô đơn” như chúng tôi ở tr.1102 Nguyễn Trãi toàn tập - Tân biên thì có lẽ chỉ đúng ở phần đầu.
(6) “Loàn đan”, hoặc “làn đan” là một từ cổ. (Nó xuất hiện một lần nữa trong thơ Nguyễn Trãi bài 139: “Ta gìn nhân nghĩa chớ loàn đan”). Cụ Đào Duy Anh chú là lăng loàn, trái đạo. Xét trong văn cảnh câu thơ đang xét trên đây thì loàn đan không thể hiểu với ý nghĩa nặng nề như vậy, mà chỉ nên hiểu là mạo muội, dám xin.