Vài tài liệu mới về Petrus Key (Trương Vĩnh Ký) (1837-1898) - kỳ cuối

Người mà chúng ta biết như Petrus Ký hay Trương Vĩnh Ký, Pétrus Trương Vĩnh Ký, hay Pierre J.B. Trương Vĩnh Ký hiện nay thoạt tiên chỉ xuất hiện với cái tên ngắn ngủi "Petrus Key," hoặc "chú Ký". Có ba tài liệu giúp khẳng định Petrus Key là Trương Vĩnh Ký sau này. Hồn Việt đã giới thiệu với độc giả tài liệu thứ nhất là thư Petrus Key gửi cho Hải Quân Trung tá Jean Bernard Jauréguiberry vào tháng 3/1859. Kỳ này chúng tôi tiếp tục trích đăng những tài liệu còn lại.

Tài liệu thứ hai là danh sách phái đoàn thông ngôn của Soái phủ Pháp, dưới quyền Trung tá Henri Rieunier, được cử tháp tùng sứ đoàn Phan Thanh Giản qua Pháp và rồi Espania vào tháng 7 năm 1863.

Danh sách này xếp chữ typo, với phụ chú chữ Hán ở phía tay trái, và có chữ ký chứng thực của Rieunier. Phần sắp chữ typo, chỉ đề tên “Petrus Key, Giáo sư trường Thông ngôn.” Phần chữ Hán, có thêm chi tiết: nhất đẳng thông ngôn Trương Vĩnh Ký. (Đã trích đăng trong Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người & Huyền thoại, tập I (1997); và Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, tập I (1999))

Tài liệu thứ ba là bản dịch thư sứ đoàn Việt gửi “Phó vương” Alexandrie, cảm tạ sự tiếp đón nồng nhiệt sứ đoàn.

Dưới bản dịch Pháp ngữ này có chữ ký Petrus Trương Vĩnh Key; và lời thị thực của Trung tá Rieunier.

Mới đây, trong dịp làm việc tại Kho Lưu trữ Quốc Gia 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi được tham khảo thêm một số tài liệu về việc mua bán sách của Petrus Key trước và sau ngày ông từ trần.

Tài Liệu II

Thư Linh mục Borelle gửi Giám Mục Lefèbvre

Ngày 24/3 [1859]

Giám Mục Tsauropolis [Lefèbvre]

Bẩm Ðức Cha:

Ngày hôm kia, Cha [Nguyễn Văn] Lựu (một trong những giáo mục của chúng ta) đã chuyển cho tôi thư [Honorée] ngày 15 của Ðức Cha mà ông ta cũng đã trao tận tay cho Giám mục Pernot, và Cha Lựu đã trở lại đây với hồi âm của giáo hữu của Ngài. Bởi thế, mặc dù bị cúm nhẹ, tôi tự nhủ có bổn phận viết đôi dòng. Có vẻ là chúng tôi đang bị kết án phải chôn chân chịu hành hạ ở đây [rester en putgatoire] vài tháng nữa, cho đến lúc mà tàu chiến của chúng ta có thể mang đến tự do cho chúng tôi.

Nếu chỉ có chúng tôi bị khổ sở, cũng chẳng khó khăn gì để giữ gìn đạo hạnh. Nhưng những tín đồ tội nghiệp [sẽ] rơi vào tình trạng cực kỳ gian nan vì các quan viên đang nghiến xiết hàm răng chống lại tín đồ Da-tô mãnh liệt hơn bao giờ hết, và không ngừng tuyên bố rằng chúng ta là nguồn gốc của mọi thảm bại mà họ gánh chịu ở Gia Ðịnh (Sài Gòn). Có vẻ là những người vây quanh Ngài không chú tâm vừa đủ trong việc canh chừng bọn gián điệp của triều đình đang luồn lách tới sát Ngài. Trong số này có kẻ được Ðại nhân ban phước và đã hôn kính nhẫn [Giám mục] của Ngài, và chúng trình diễn Ngài như một nhà Bảo hộ lớn [vĩ đại] của tất cả những kẻ đào ngũ [transfuges], dù là tín đồ Da Tô, hay ngoại đạo, bên cạnh người Pháp.

Chúng đã báo cáo với các quan lại những cộng tác [dịch vụ] mà người Da tô [Xtiens] đã cống hiến cho người Pháp và các ông quan [Ðại Nam] này đã thề là sẽ trả thù trên đầu tất cả dân Da tô, chẳng cần phân biệt khinh trọng. Mỗi ngày, họ đưa về các tỉnh Mỹ Tho và Long Hồ [Vĩnh Long] những biện pháp ngày càng nghiêm ngặt chống lại tín đồ Da tô và trên hết, là kiểm soát gắt gao. Chỉ cần hơi nghi ngờ thôi là họ tra tấn liền. Ngày hôm qua ông Huyện Ba Vát [Xát?] đột ngột đến xét nhà Cả Lễ và điều tra, khám xét tỉ mỉ, và trở lại cũng đột ngột như khi đến.

Tôi không hiểu quan Huyện có nghĩ rằng ông ta có thể tìm ra một giáo sĩ Âu Châu [ "Thầy Tây"] hay một đạo trường bổn quốc [giáo mục bản xứ], hay lấy cớ rằng thầy Quang đã bị buộc tội là từng qua "học bên Tây", dù rằng họ chưa bắt giữ [Thầy Quang]

Ðau khổ nhất là tất cả các tín đồ Da Tô không được phép di chuyển, dù chỉ để tìm thực phẩm cho năm nay, vì người ta đã đặt thánh giá tại các trạm kiểm soát thuế; số trạm thuế cũng đã gia tăng nhiều lần. Ngay đến những người lương thiện cũng không dám mạo hiểm đi buôn bán vì các quan đã trưng thu tất cả tàu thuyền của dân. Lúa đã chín, có thể rụng xuống gốc vì người làm mùa và người mua đều đau khổ, và chẳng thiếu gì người lương đã bày tỏ ý muốn thấy tàu Tây sớm đến đánh chiếm các tỉnh để chấm dứt cảnh lính tráng cướp bóc, tàn phá ruộng vườn, và chấm dứt mọi vấn đề [việc].

Trước đây Cả Thiện và một số người có viễn kiến [nhìn xa thấy rộng] có ý kiến rằng nếu các tầu chiến chỉ đến để chiếm các tỉnh và rồi đặt chúng ta ở đó họ cảm thấy tốt hơn là không dính líu, nhưng ngày nay họ thích chịu đựng các hậu quả vô chính phủ hơn là chịu đựng sự oán giận [retentissment] của ông Thượng, người chắc chắn sẽ trút mọi sự tức giận lên đầu giáo dân Da Tô.

Tại đây, ai nấy đều run sợ cho tính mạng họ. Trong khi mà nếu các tỉnh bị tàn phá, và nếu có phương tiện đưa xuống đây 1 hay 2 chiến hạm, người ta chẳng mong gì hơn là ngăn chặn ăn cướp và mỗi làng sẽ có 1 cơ quan hành chính riêng, và nếu giáo dân Da tô [được ở lại làng cũ] thoát khỏi cảnh săn giết, thương mại sẽ bắt đầu trở lại và mỗi gia đình sẽ có khả năng sản xuất thực phẩm đủ dùng trong năm. Ngay đến những người lương cũng sẽ tri ơn Pháp.

Tại đây, các làng xã không còn lúa [thóc] dự trữ nữa, người ta phải đi vay mượn. Và trong cả họ đạo người ta chỉ còn khoảng 400 hộc [mesures] lúa. Nếu có được 1 con đường khả dụng từ đây đến Gia Ðịnh, Ðức Cha Pernot có thể lên tâm sự với Ngài vì tôi lo rằng vị thế của Ngài rất nặng nề, nhưng đó là điều chưa làm được cho tới khi Ngài [Ðại nhân] đã chiếm được con Rạch Cắt, ở đó có 1 đạo quân [Việt]. Bến Lức, Sơn Cần Ðốt, Vũng Già và Rạch Chanh Gò Ðen.

Tại tất cả các đồn trên đều có 1 đạo quân và 1 cây thánh giá để bước qua, như 1 điều kiện bắt buộc [sine que non] để đi qua. Tôi không rõ chú Ký (người thông ngôn) có thể đến được chỗ Ngài hay chăng nhưng tôi biết rằng chú ta suýt nữa đã bị bắt ở 1 trong những đồn trên và chú ta sẽ rất vui mừng khi người ta cho chú tiếp tục đi bằng đường bộ.

Thật may mắn là Chỉ huy trưởng Jauréguiberry, có lẽ do ông ta được đào tạo khá hơn [tout pourtant qu’ờil est soit de meilleure composition], và đối xử với Ngài dễ dãi [déférence] hơn là Ðề đốc, điều này có thể có ích cho chúng ta trong các tỉnh dưới. Còn lại, Ðức Cha có thể tin được rằng tôi đặt kỳ vọng trên sự đoàn kết chặt chẽ của tất cả thành viên khổ sở trong họ đạo. Vì tôi không chút hoài nghi rằng họ đạo chẳng bao giờ bỏ dân (cơ hội varsable (thuận tiện), .... Sự kiên nhẫn cho phép Ngài chỉ huy tàu đến cứu giúp chúng tôi.

Trong khi chờ đợi thượng đế chiếu cố sức khỏe Ngài và những phương tiện để bồi hoàn lại [de réparer in quantum], sự không hành động có nghĩa là sự kết án tất cả các thành viên của họ đạo...

Ðức Cha cao cả
Kẻ tôi tớ hèn mọn và vâng lời nhất
H[enri] Borelle, Tổng Quản lý

Cha Thường vẫn bị đau và có thể chết trong tù nếu không sớm được phóng thích.

Cha Quí bị cướp [indisposé] khá nặng, nhưng đã khá hơn tất cả các cha [confesseurs] khác thuộc 3 tỉnh.

Những việc chối đạo [apostasies] xảy ra hàng ngày vì tất cả các tín đồ Da tô một khi bị bắt, hoặc ở trạm kiểm soát thuế, hoặc tại làng xã, đều bị ép chối đạo [faux pas, tức bước qua thập tự giá] vì sợ chết hay bị tra tấn trong những tình cảnh hiện nay.

Hai chú Bộ và Ðính, tôi bắt buộc phải gửi trả về gia đình vì hai chú này không giữ được lời thệ [vocation]. Ðây là 2 đối tượng bị mất.

(Chú Cam [?] cùng về với chú Ký năm ngoái [1858] hiện trở thành tay nghiện cờ bạc và ăn trộm lớn, và tôi cũng chẳng ngạc nhiên lắm. Chú ta đã từng bị trừng phạt ở trường Pinang vì tội trộm cắp). (Chữ in nghiêng của nguời dịch)

Tôi tin rằng 8 lá thư [đã] gửi ra ngoại quốc nhân dịp người đưa thư Khiêm, có phải vậy không thưa Ðức Cha? Tất cả những họ đạo ở hai tỉnh trên họ có dịp tham gia vào việc người Pháp có mặt ở Cá Trê? Các giáo mục có được tham gia vào guồng máy hành chính như định trước?

Ở đây, tất cả chúng tôi đều bị kết án biệt lập tuyệt đối. Chẳng có 1 huyện nào ở đó người ta dám gọi giáo dân Ki-tô lên để sinh tế (?)
 

Ghi chú:

Tài liệu này có hai điểm đáng ghi nhận:

Năm 1858, Petrus Key đã về tới Cái Mơn, Vĩnh Long. Cùng từ trường Pinang về có ba "chú" khác bị sa thải vì hạnh kiểm.

Năm 1859, Borelle gọi Petrus Key là "chú Ký" mà không phải "Cha Ký" (như trường hợp "Cha Lựu." Ðiều này có nghĩa Petrus Key chưa được thụ phong linh mục, và như thế không tốt nghiệp Chủng viện Pinang).

Phải chăng Petrus Key chính là loại "thày kẻ giảng bị trục xuất vì lý do hạnh kiểm" mà Ðề đốc Rieunier sau này nhắc đến?


Trương Vĩnh Ký (1837-1898).

Tài Liệu III

Thư của Sứ đoàn Ðại Nam gửi Phó Vương Alexandrie

Nội dung thư này chẳng có gì đặc biệt, và được nhắc đến trong một số tác phẩm đã ấn hành. Ðáng chú ý là người thông dịch ký tên là Petrus Truong Vinh Key.

Hai chữ "Truong Vinh" đã được thêm vào giữa tên "Petrus" và họ "Key."

Chữ "Key" vài tháng trước cũng đã được dịch qua chữ nho là "Kí." Ðiều này chứng tỏ chậm lắm từ năm 1863-1864, "chú Kí" của Linh mục Borelle năm 1858-1859, đã tìm được phả mới-Trương Vĩnh.

Tài Liệu IV

Số tác phẩm Petrus Key đã ấn hành

Một trong những vấn nạn hiện nay là tổng số tác phẩm Petrus Key đã hoàn tất và xuất bản.

Theo tư liệu tại Kho Lưu trữ Quốc Gia II tại Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), năm 1878, Petrus Key xuất bản cuốn Tự điển Pháp-Việt, với tựa đề nguyên văn như sau: Dictionnaire Francais-Annamite/ Tự vị tiếng Pha Lang Sa Giải nghĩa theo tiếng Annam. (GOUCOCH, IA-6, HS 223) [Làm copy, 12 trang]

Năm 1884, Petrus Key in một catalog sách đã xuất bản, gồm bốn mươi bảy tựa:

Gồm 12 tựa do chính phủ Nam Kỳ hoặc các cơ quan yêu cầu.

23 cuốn do các nhà xuất bản thương mại.

2 cuốn do nhà xuất bản Hội truyền giáo. [Làm copy, 4 trang]

Một danh sách viết tay khác ghi năm mươi ba [53] cuốn, kể cả 9 cuốn in thạch bản. (GOUCOCH, IA-6, HS 217 (3)) [Làm copy, 3 trang]

Ngày 31/3/1885, Pháp đồng ý trợ cấp cho Petrus Key Một ngàn năm trăm [1500] đồng để khuyến khích in Petit dictionnaire francais-annamite [Tiểu tự điển Pha Lăng Sa giải nghĩa qua tiếng Annam]. (GOUCOCH, IA-6, HS 217 (3)) [Làm copy, 4 trang]

7/7/1888, Petrus Key viết thư cho Thống soái Nam Kỳ về việc không có répétiteur người Miên cho lớp dạy tiếng Miên tại trường Chasseloup Laubat. (GOUCOCH, IA-6, HS 232 (5, 61)) Petrus Key được giao phụ trách lớp dạy tiếng Miên và tiếng Tàu. [Làm copy, 2 trang]

Năm 1889, Petrus Key xuất bản cuốn Tự điển Việt-Pháp, với tựa đề nguyên văn như sau: Dictionnaire Annamite-Francais/ Tự vị tiếng Annam Giải nghĩa theo tiếng Pha Lang Sa. (GOUCOCH, IA-6, HS 217 (3), 223) [Làm copy, 6 trang]

Năm 1890, có mười ba [13] tựa sách của Petrus Key. (GOUCOCH, IA-6, HS 217 (3))

Ngày 12/12/1895, Petrus Key viết thư yêu cầu chính phủ Nam Kỳ mua giúp 2000 cuốn Cours d’Annamite parlé [Bài giảng tiếng An-nam-mít nói]. Giá hai đồng một cuốn. Ngày 13/1/1897, Hội đồng Quản hạt chấp thuận mua 1000 cuốn, với giá tiền Hai ngàn đồng. (GOUCOCH, IA-6, HS 231(12))

Năm 1896, Petrus Key yêu cầu mua 2000 bản Minh Tâm Bửu Giám [Le Précieux Miroir du Coeur].

Ngày 3 và 26/10/1898, Bà quả phụ Petrus Key gửi thư yêu cầu chính phủ Nam Kỳ mua giúp số sách tồn kho của Petrus Key.

Ngày 11/11/1898, Phòng 3 gửi Thông tư số 37 cho 18 tỉnh, yêu cầu mua sách Petrus Key. 8 tỉnh không mua (Rạch Giá, Trà Vinh, Sa Dec, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Thủ Dầu Một, Châu Ðốc, Gò Công). Ba tỉnh mua cao nhất là Tân An (7 tựa, $98.30), Cần Thơ (5 tựa, $94.40), Vĩnh Long (6 tựa, $93.30). Kế đến Bến Tre (2 tựa, mỗi tựa 100 cuốn, $60.00), Long Xuyên (12 tựa, $52.40), Hà Tiên (7 tựa, $31.50), Sóc Trăng (5 tựa, $31.40), Gia Ðịnh (1 tựa Vocabulaire annamite-francais, $27.00). Biên Hoà mua mỗi tựa một cuốn, Chợ Lớn mua 2 tựa.

Ngày 2/5/1899, Phòng 3 Ban Thư ký [3è Bureau du Secrétaire du Gouvernement] cho bà Petrus Key biết đồng ý mua hai mươi ba [23] tựa sách, với tổng số tiền Năm trăm chín mươi ba đồng, tám mươi xu [$ 593.80]. (GOUCOCH, IA-6, HS 223) [Làm copy, 5 trang]

Những tựa sách bán được có:

Thầy trò
Sơ học văn tân [Répertoire pour les nouveaux étudiants]
Tứ thơ No.1
Bất cượng [Fais ce que dois, advienne que pourra]
Mắc bịnh cúm từ
Ngư tiều trường điệu
Bài hịch con qụa [Proscription des corbeaux]
Vocabulaire Annamite-Francais.
Học trò khó phú [Un lettré pauvre]
Alphabet francais
Thạnh suy bỉ thói phú [Caprices de la fortune]
Phan Trần
Kim Vân Kiều truyện
Trung Dung
Ước lược
Miscellanés

Manuel [des écoles primaires à l’usage des jeunes élèves des écoles de l’administration de la basse Cochinchine, 1er volume: 1. Syllabaire quốc ngữ, 2è histoire annamite; 3e histoire chinoise (1876), 2e volume: simples notions sur les sciences, n’a pas paru (1876)]

Minh Tâm [Bửu giám]
Thơ dạy làm dâu [La Bru]
Lục súc tranh công
Kiếp phong trần [Événements de la vie]
Trương Lương [Apologie de Truong Luong = Trương Lưu hầu phú]
Cờ bạc nha phiến. (GOUCOCH, IA-6, HS 223) [Làm copy, 5 trang]

Ngày 15/5/1899, tức một năm sau ngày Petrus Key từ trần, tại thư viện Nam Kỳ có 88 cuốn sách của Petrus Key. Không rõ đây là 88 đơn vị hay 88 tựa sách khác nhau. (GOUCOCH, IA-6, HS 223)

Trong số các tác phẩm của Petrus Key, có tập Prosodie et versification annamite [Phép văn thi Annam].

Cuốn này chỉ in thạch bản, còn lại bốn (04) bài, khoảng 80 trang:

Bài thứ hai: Phép làm văn, làm thơ. [Làm copy, 2 trang]

Bài thứ tư: Văn dùng trong việc thi học trò.

Bài thứ năm: Hoài cổ tự thuật phú

Bài thứ sáu: Phép làm văn (GOUCOCH, IA-7, HS 206 (3)).


Bài liên quan:
VŨ NGỰ CHIÊU